Monday, 29 August 2011

LỚN BẤY DUY NGÀI (HOW GREAT THOU ART)

LỚN BẤY DUY NGÀI (HOW GREAT THOU ART)

Người ta gọi Thánh Ca nầy là “Bài thơ sau cơn bão tố”. Carl Gustaf Boberg (1859-1940), một Mục sư người Thụy-điển cũng là một nhà báo và là một dân biểu quốc hội. Một hôm đang đi bộ trên đường, thình lình một cơn bão từ đâu ập tới.  Mây âm u, gió ào ào thổi. Khi trận cuồng phong đã qua, Boberg bước ra từ nơi ẩn núp và nhìn thấy  một bầu trời tươi đẹp, quang đãng. Núi non trùng điệp, đại dương êm đềm, xanh biếc. Xa xa tiếng chuông nhà thờ vang vọng. Lòng ông dâng trào cảm xúc trước vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên. Ngay lúc đó, những lời thơ được dệt thành từ  trong tâm khảm: “Khi xem muôn vật do tay Thiên Chúa sáng tạo chúng, Cứu Chúa của tôi lòng cảm xúc bao kinh sợ. Tôi xem sao trời, tôi nghe muôn tiếng sấm rền nổ. Khắp khắp đó đây, quyền của Chúa ôi vô bờ...”.

Bài thơ viết bằng tiếng Thuy điển rồi được dịch sang tiếng Đức và tiếng Nga. Stuart Hine, một nhà truyền giáo người Anh ở Ukraine đã phổ nhạc và sau đó ông dịch sang Anh ngữ, trình diễn lần đầu tại vương quốc Anh trong thời đệ nhứt thế chiến. Nhưng người đã đưa bản Thánh ca trác tuyệt nầy đến khắp nơi trên thế giới là ca sĩ George Beverly Shea trong đoàn truyền giáo Billy Graham. Ông đã hát bài nầy hơn 100 lần trong những chiến dịch truyền giảng khắp nơi. Bài hát “Lớn Bấy Duy Ngài” đã trở thành một trong những bản Thánh Ca lừng lẫy nhất trong lịch sử.

            “Khi tôi lên ngọn non cao trông xuống dưới vực thẳm. Suối róc rách reo, hòa tấu khúc ca êm đềm. Tôi vô sâu rừng, muôn cây chen chúc, cỏ mọc xanh. Ríu rít tiếng chim mừng hát khúc ca thanh bình”.
            “Hồn ngợi khen Chúa, Cứu Chúa tôi Đức Chúa Trời, Chúa Đấng siêu việt, quyền bính vô cùng. Hồn ngợi khen Chúa, Cứu Chúa tôi Đức Chúa Trời. Duy Ngài đại năng, cao cả quyền oai!”

Thursday, 25 August 2011

GIÊ-XU LÀ BẠN THẬT! (WHAT A FRIEND WE HAVE IN JESUS)


Khi giai điệu của bản Thánh Ca “Giê-xu Là Bạn Thật” trổi lên, hẳn lòng Bạn muốn hòa nhập ngay với những lời thơ đơn giản mà chứa chan niềm vui, hạnh phước trong tình bạn sâu nhiệm của Cứu Chúa. “Chẳng có sự yêu thương nào lớn hơn là vì bạn hữu mà phó sự sống mình”(Giăng 15:13).
                Joseph Scriven (1819-1896), một chàng thanh niên Ái-nhĩ-lan 25 tuổi đang yêu và sắp cưới người mình yêu. Một ngày trước khi thành hôn, cô dâu bị chết đuối trong một tai nạn. Thảm kịch làm tâm hồn tan vỡ, Joseph rời bỏ quê hương, xuống tàu vượt trùng dương, bắt đầu cuộc sống mới tại Canada. Tại đây anh trở thành một thầy giáo và sau đó một thời gian đem lòng yêu một cô gái tên Eliza Roche. Nhưng định mệnh lại khắc nghiệt với anh. Một lần nữa mơ ước bất thành. Eliza ngã bịnh và qua đời trước ngày cưới.
                Người ta kể, chàng trẻ tuổi với  nhiều bi thương đó chỉ đứng vững bằng sức mạnh của niềm tin nơi Thiên Chúa. Anh rời bỏ việc làm, gia nhập vào nhóm Plymouth Brethren và làm thầy giảng cho một Hội Thánh Báp-tít. Anh không bao giờ lập gia đình nữa, nhưng dành suốt quãng đời còn lại để giúp đỡ những kẻ khốn cùng. Tất cả tiền bạc và ngay cả quần áo anh có đều được xử dụng để chia xẻ sự cảm thông với những người nghèo khổ.
                Đang lúc lo tang lễ cho Eliza, Joseph lại nhận thêm một tin buồn. Mẹ anh ở Ái-nhĩ-lan bịnh nặng. Ngàn dặm cách trở, anh không về được, chỉ có thể viết một lá thư an ủi kèm với bài thơ đề tựa“Giê-xu là Bạn Thật”.
                Ba mươi năm sau, khi Joseph hấp hối trên giường bịnh, một người bạn đến thăm, tình cờ đọc được bài thơ và đem phổ biến. Nhạc sĩ Charles Converse đưa nhạc vào thơ. Và những lời gửi mẹ đã trở thành một bản Thánh Ca muôn thuở.
                Sau khi Joseph Scriven qua đời, dân chúng ở thành phố Ontario, Canada, nơi ông cống hiến cuộc đời, đã dựng một bia kỷ niệm. Nhưng điều mà mọi người ngày nay đều nhớ đến ông, là thánh khúc “Giê-xu Là Bạn Thật”!
                “Ôi Giê-xu Chúa ta là Bạn thật. Bằng lòng gánh tội lỗi chúng ta… »
                « Ta không gọi các ngươi là đầy tớ nữa, nhưng Ta gọi các ngươi là bạn hữu Ta » (Giăng 15 :15).

TIẾNG HÁT GIỮA MÀN ĐÊM


Bạn đã từng hát những bản Thánh Ca: “Chỗ kẻ đá vững an””, hay “Nầy là chuyện ký tôi”, “Chúa dẫn đưa đời tôi”, “Xin kéo tôi lại gần hơn” v.v…Những ca khúc mang lại phước hạnh, xoa dịu những đau thương của cuộc đời. Nhưng bạn có biết tác giả những lời thánh nhạc đó là một phụ nữ mù lòa, bất hạnh? FANNY J. CROSBY!
            Sinh tại Nữu Ước ngày 24 tháng 3 năm 1820. Sáu tuần lễ sau đó, em bé Fanny bị bịnh ở mắt. Bác sĩ nhãn khoa đã nhỏ vào một chất thuốc để chữa, nhưng có lẽ vì thiếu kinh nghiệm hay sai lầm, ông đã làm hư luôn đôi mắt trẻ thơ. Từ đó cho đến khi qua đời, 95 năm sau, Fanny Crosby sống trong cảnh mù lòa.
            Khi lên 1, cha chết, để lại người mẹ 21 tuổi với 4 đứa con. Trong cơn túng quẩn, bà đã giao các con cho bà nội trông nom và đi làm mướn cho người ta. Được dạy bảo bởi bà nội tin kính, cộng với sự thông minh hiếm có, Fanny đã trưởng thành trong niềm kính yêu Thiên Chúa. Lúc 10 tuổi cô đã thuộc lòng 5 sách Môi-se, 4 sách Phúc Âm, Châm ngôn, Nhã ca và nhiều Thi thiên. Lúc 8 tuổi cô đã bắt đầu làm thơ. Và trong suốt cuộc đời, cô đã làm trên 8000 bài thơ ca tụng Chúa. Rất nhiều bài thơ được phổ thành những Thánh Ca bất tử, đem lại niềm tin và an ủi cho nhiều thế hệ.
            Người ta không bao giờ bắt gặp ở Fanny Crosby một lời than vãn, oán trách. Bà luôn vui vẻ, yêu đời, chia xẻ những gì mình có cho kẻ thiếu thốn. Bà nói “Ở đâu có sự ích kỷ, ở đó không tìm thấy hạnh phúc”. Ngày 11 tháng 2 năm 1915, trước khi đi ngủ bà viết một bức thư khích lệ bạn bè, và đêm đó bà an nghỉ trong tay Chúa.
            “Nếu tôi có một chọn lựa, tôi vẫn sẽ chọn được mù lòa…Vì khi tôi qua đời, gương mặt đầu tiên tôi sẽ nhìn thấy, là Cứu Chúa của tôi!” (Fanny Crosby).