Tuesday, 23 February 2016

GIÁO PHỤ POLYCARP

GIÁO PHỤ POLYCARP

 

Polycarp là một trong những giáo phụ đầu tiên của Hội Thánh Chúa Giê-xu. Ông sinh năm 69 sau công nguyên, môn đệ của sứ đồ Giăng, làm giám mục Hội Thánh tại Sy-miệc-nơ, ngày nay thuộc thành phố Izmir của nước Thổ-nhĩ-kỳ.

 

Năm 86 tuổi, ông bị chính quyền La-mã bắt từ một trang trại và đem ra xử trước tòa án của hoàng đế Sê-sa. Tại đấu trường, trước hàng ngàn người hung hăng như muốn ăn tươi nuốt sống cụ già yếu ớt, quan Thống-đốc nói: “Ta nể ngươi là một người già cả, không muốn giết hại. Bây giờ ngươi hãy quỳ xuống, rủa sả Đấng Christ, nói một lời tuyên xưng ‘hoàng đế Sê-sa là Chúa’ và bằng lòng dâng hương trên bàn thờ nhà vua, ta sẽ vui vẻ tha cho ngươi”.

 

Polycarp đáp lại: “Tôi đã hầu việc Đấng Christ tám mươi sáu năm. Ngài lúc nào cũng làm ơn cho tôi. Làm sao tôi có thể phản bội Ngài được?”. Thẩm phán nói: “Ta sẽ thiêu đốt ngươi trong lò lửa hực!”. Ông trả lời: “Lửa mà ông đe dọa tôi chỉ có thể đốt cháy trong một vài giờ, nhưng ông có biết lửa của sự phán xét sẽ cháy đời đời dành cho những ai không tin nhận Chúa? Hãy làm điều ông muốn!”.

 

Viên thống đốc bước ra tuyên bố với đám đông: “Polycarp chỉ tin theo Đấng Christ, không tôn thờ hoàng đế La-mã”. Mọi người hò hét: “Hãy thiêu sống hắn trên giàn hỏa”. Quân lính định trói ông vào một cây cột trước khi đốt lửa, nhưng ông nói: “Hãy để cho tôi thong thả. Đấng hằng sống sẽ cho tôi đủ sức đứng yên trên giàn thiêu nầy, không cần phải buộc tôi lại”. Rồi ông lớn tiếng cầu nguyện: “Con cảm tạ Đức Chúa Trời là Đấng nhân từ đã cho con được xứng đáng trong giờ này, để con nhận số phận của một kẻ tử đạo, cùng uống chung chén thương khó với Chúa Cứu Thế”.

 

Người ta kể rằng ngọn lửa hừng không thể làm cháy nát cơ thể ông. Quân lính đã phải dùng kiếm đâm cho đến chết. Những người chứng kiến cuộc hành quyết ngửi thấy một mùi hương thơm ngọt ngào phát ra từ giàn hỏa thiêu. Hôm đó là ngày 23 tháng 2, năm 156 sau công nguyên. Giáo phụ Polycarp thọ 86 tuổi.

 

“Hãy trung tín cho đến chết, rồi Ta sẽ ban cho con mão triều thiên của sự sống”. Khải Huyền 3:10

 

Lê Trần - 2016






Tuesday, 9 February 2016

ETERNITY - CÕI VĨNH HẰNG


Năm 2000, một cuộc bắn pháo bông rực rỡ được tổ chức ở cầu Sydney Harbour để đánh dấu thiên niên kỷ mới. Hôm đó chữ “Eternity” (Cõi Vĩnh Hằng) được treo lên và chiếu sáng rất đẹp trong suốt lễ hội hoa đăng. Năm 2000 Sydney cũng chào đón Thế Vận Hội lần thứ 27 và lấy đề tài “Eternity”. Nhưng rất ít người biết rằng chủ đề của hai biến cố quan trọng ấy là “công trình” của một người thất học tên là Arthur Malcolm Stace (1885-1967).
Arthur chào đời năm 1885 tại Sydney trong một gia đình nghèo khổ, cả cha lẫn mẹ đều nghiện ngập. Để kiếm sống thường phải đi ăn cắp bánh mì, sữa và lục lạo những thứ dư thừa trong thùng rác. Năm 12 tuổi, cậu bé được nhận làm trong một mỏ than, nhưng rồi không lâu cũng rơi vào nghiện ngập. Mười lăm tuổi đã phải vào tù. Khi mãn hạn, làm ma-cô cho các nhà thổ. Đến năm 32 tuổi, gia nhập vào quân đội, nhưng mang nhiều chứng bịnh, đành giải ngũ.
Một buổi tối năm 1930, sau khi nghe bài giảng của vị Mục-sư về cuộc sống đời đời, Arthur đã tin nhận Chúa và bắt đầu đi nhà thờ mỗi tuần. Về sau anh kể lại rằng: “Khi đó, tiếng Eternity (cõi vĩnh hằng) như vang dội trong tâm trí tôi. Bất thần tôi bật khóc và nghe Chúa phán bảo tôi phải đi viết chữ Eternity”. Là một người dốt, không thể viết nổi tên của mình, nhưng tự nhiên trong đầu óc của Arthur bỗng hiện ra chữ Eternity với nét kiểu cách, rồi ông cứ thế mà viết, chỉ một kiểu duy nhất. Trong suốt 35 năm, từ sáng tinh mơ đến tối mịt, Arthur đi rảo khắp thành phố Sydney, dùng phấn viết chữ Eternity tuyệt đẹp bất kể nơi nào ông có thể viết, trên lề đường dành cho khách bộ hành hay những trạm xe lửa. Theo ước tính, trong suốt quãng đời còn lại, cho đến khi chết năm 1967, Arthur đã viết chữ nầy khoảng 500.000 lần. Huyền thoại về người viết chữ Eternity được truyền bá khắp thành phố Sydney. Hiện nay chữ Eternity duy nhất do chính tay Authur viết vẫn còn trên đồng hồ của nhà bưu điện chính. Từ đó chữ nầy trở thành bất tử cũng như tác giả của nó đã bước vào cõi vĩnh hằng mà Thiên Chúa dành sẵn cho những ai tin cậy Ngài.

Mời Bạn đọc lại lời phán của Chúa Cứu Thế đã biến đổi cuộc đời Arthur: “Chiên Ta nghe tiếng Ta, Ta quen nó, và nó theo Ta. Ta ban cho nó sự sống vĩnh hằng; nó chẳng chết mất bao giờ, và chẳng ai cướp nó khỏi tay Ta” (Giăng 10:27-28).

TỔNG THỐNG NGHÈO NHẤT THẾ GIỚI

Ngày 1 tháng 3 năm  2015, ông Jose Mujica, 79 tuổi, kết thúc nhiệm kỳ 5 năm làm tổng thống của nước Uruguay, để lại sự yêu mến nồng nàn của 4 triệu người dân. Ông được mệnh danh là “vị tổng thống nghèo nhất thế giới”. Nhiều người còn gọi ông là “tổng thống mà bất cứ quốc gia nào cũng muốn có”.

Khi trở thành nhà lãnh đạo của đất nước, ông đã từ chối dọn về dinh tổng thống tráng lệ mà cứ tiếp tục sống trong căn nhà đơn sơ, tự làm vườn để có lợi tức, đi làm bằng chiếc xe Volkswagen Beetle đời 1987 cũ kỹ, giành 90 phần trăm lương bổng của mình cho các công tác từ thiện. Lương của ông 12.000 dollars mỗi tháng, ông chỉ nhận $775. Năm ngoái một hoàng thân của xứ Arab đã đề nghị mua lại chiếc xe cà tàng nầy với giá 1 triệu dollars, nhưng ông từ chối vì cho rằng nếu làm như thế là xúc phạm đến tất cả những người đã góp tiền mua chiếc xe đó cho ông.

Sau 5 năm lãnh đạo, mức ủng hộ dân chúng giành cho Mujica vẫn còn rất cao, nhưng hiến pháp Uruguay không cho phép ông ứng cử nhiệm kỳ thứ hai. Thành tích nổi bật mà ông tự hào là đưa tên của đất nước trở lại trên bản đồ thế giới với nền kinh tế tăng trưởng gần 6% mỗi năm, giảm nợ công từ 100% xuống 60%, giảm mức thất nghiệp 39% xuống còn 11% và tình trạng nghèo khổ bây giờ chỉ còn 0.5% trong xã hội thay vì hơn 5% như trước. Dĩ nhiên ông cũng không tránh khỏi những chỉ trích thường tình của dân chúng, nhưng một vị lãnh đạo như thế thật đáng làm gương cho nhiều thế hệ.

Viết đến đây tôi nghĩ đến Chúa Cứu Thế, vị lãnh đạo của Cơ-đốc-nhân qua bao thời đại. Thánh Kinh ghi lại rằng: “Anh em biết ân sủng vô biên của Chúa Cứu Thế. Ngài vốn giàu, nhưng vì hy sinh cứu vớt anh em mà trở nên nghèo. Và bởi sự nghèo khổ của Ngài mà anh em được giàu có” (II Cô 8:9). Một chỗ khác ghi rằng: “Chúa vốn có bản thể của Thượng Đế, nhưng Ngài tình nguyện từ bỏ tất cả. Mang thân thể con người. Cam chịu thân phận của một người nô-lệ” (Phi-líp 2:7).


Nếu Jose Mujica là “tổng thống mà bất cứ quốc gia nào cũng muốn có”, thì tôi tin rằng Chúa Giê-xu là Đấng Cứu Thế mà mỗi người trong trần gian đều cần phải tiếp nhận cho cuộc đời mình!

Monday, 1 February 2016

NHẬN RA MÌNH LÀ HOÀNG TỬ SAU 60 NĂM LÀM CON NUÔI

Cho đến gần cuối cuộc đời, ông Keith Williams, một thương gia tại miền nam xứ Wales mới nhận biết mình là hậu duệ của một vị vua Mã-lai-á.
Keith được ông bà Williams nhận làm con nuôi từ lúc mới 2 tuổi, bây giờ đã 64, tiếp quản công việc kinh doanh than của cha mẹ nuôi, nhưng nào biết rằng có dòng máu hoàng gia đang chảy trong huyết quản của mình và người cha đầy quyền lực sống ở một nơi xa hàng ngàn cây số. Cho đến lúc ở bên kia sườn dốc cuộc đời, khi cố gắng tìm lại gia đình ruột thịt,  ông mới nhận ra gốc gác cao quý. Nhưng rất tiếc là đã quá muộn, vì thân phụ hoàng đế Perak, đời thứ 33, đã băng hà cách nay 30 năm.
Sự thật được tiết lộ khi ông tìm được người mẹ đẻ, bà Elizabeth Rosa. Bà từng làm y tá tại quận hạt Surrey, Anh quốc. Trong thời gian thực tập điều dưỡng, bà gặp một thanh niên tuấn tú người Á-châu đang theo học tại London và bà có thai với người mình yêu.  Bởi cái thai trong người, bà buộc phải trở về quê hương tại Llanelli. Đến khi quay trở lại Surrey, Elizabeth không tìm thấy người đàn ông mình đã trao thân nữa. Bây giờ ông đã về nước và trở thành vua Almarhum Sultan Idris Shah Ibni Almarhum Sultan Iskandar Shah, tức hoàng đế Perak, trị vì từ năm 1963 đến khi qua đời năm 1984.
Keith Williams bây giờ đã có 3 con và 6 đứa cháu. Mới đây ông đến Malaysia để thăm lăng mộ của cha mình, dù gặp rất nhiều khó khăn với gia đình bên nội, vì họ sợ ông giành lại tước hiệu hay tài sản gia đình. Nhưng vị “hoàng tử không được công nhận” nầy cho biết tất cả những gì mình cố gắng thu thập không phải là tiền của mà chỉ để rõ ràng hơn nguồn cội mà mình đã đánh mất suốt hơn sáu thập niên qua.
Suy nghĩ đến thân phận thật của kiếp nhân sinh, chúng ta có bao giờ tự hỏi: Tôi là ai? Tôi đã đến từ đâu? Tôi sinh ra trong trần thế nầy với mục đích gì? Và cuối cùng rồi tôi sẽ về đâu? Trả lời được những câu hỏi đó hẳn sẽ dẫn ta đến tận cùng của Chân Thiện Mỹ. Nhưng có mấy ai tìm hết lời giải đáp!

“Hãy xem, tình yêu Đức Chúa Cha đã ban cho chúng ta tuyệt diệu dường nào, đến nỗi chúng ta được gọi là con cái Đức Chúa Trời, và thật vậy chúng ta là con cái Ngài. Sỡ dĩ thế gian không biết chúng ta vì thế gian không biết Ngài” (I Giăng 3:1).