Tuesday, 25 March 2014

Happy Birthday, O.K

Chúa Nhật 23 tháng 3 năm 2014 vừa qua là sinh nhật thứ 175 của chữ “O.K”! Đây là tiếng Mỹ nhưng đã trở nên rất thông dụng, đến nỗi từ trẻ con đến người lớn trên mọi miền thế giới đều biết đến. Hỏi “việc nầy có được không?”, trả lời “OK!”. Hỏi “có đồng ý không?”, cũng nói “OK!”. Hoặc là “có khỏe không?”, sẽ nghe “OK!”. Bất kỳ là chuyện gì, hễ được, tốt, đồng ý, vui, thỏa lòng, chỉ dùng một chữ “OK” là diễn tả đầy đủ.
Chữ nầy phát xuất từ đâu? Có người cho rằng nó bắt nguồn từ chữ “och aye” của người Tô-cách-lan. Có người nói có thể là do chữ “ola kala” trong ngôn ngữ Hi-lạp (có nghĩa là “mọi việc đều tốt”). Người Pháp tin rằng từ ngữ nầy phát sinh từ chữ “aux Cayes” mà họ thường dùng tại hải cảng Hai-ti ở Nam Mỹ ngày xưa.
Nhưng các nhà soạn tự điển Oxford quả quyết “OK” là do chữ “orl korrekt” mà ra. Chữ nầy đầu tiên cố ý viết sai chính tả với dụng ý đùa cợt vào thập niên 1830 có nghĩa là “all correct” (mọi việc đều đúng). Nó xuất hiện trên một bài báo trong tờ Boston Morning Post vào ngày 23 tháng 3 năm 1839, cách nay 175 năm.
 Một tiệm cà-phê OK
 
                                                          Bài báo Boston Morning Post năm 1839

Tìm trong Kinh Thánh, Bạn sẽ không thấy chữ “OK”. Nhưng giả sử bây giờ, dùng ngôn ngữ bình dân để viết câu ‘Hỡi đầy tớ ngay lành và trung tín kia, được lắm!” (Ma-thi-ơ 25:21) bằng tiếng Mỹ: “My good and faithful servant, you’re OK!”. Lời khen nầy đến từ môi miệng của Vua muôn vua, Chúa muôn chúa sẽ là niềm hãnh diện lớn lao cho những đầy tớ “ngay lành và trung tín” ngày đêm dốc lòng phụng sự Đấng Yêu Thương!
Hôm nay Bạn có OK không?

Monday, 24 March 2014

KHO BÁU

Ở huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận (Việt Nam) người ta truyền tụng một bí ẩn rằng trên Núi Tàu của tỉnh nầy có chôn giấu một kho tàng, gọi là kho báu Yamashita. Tương truyền trước khi đầu hàng quân đội Đồng Minh trong đệ nhị thế chiến, vị tướng Nhật Yamashita đã đem 4000 tấn vàng về giấu tại ngọn núi nầy.
Tất nhiên nhiều người đã đổ công sức để đi tìm kho báu, nhưng cho đến nay chỉ còn một người đeo đuổi suốt 20 năm với quyết tâm tìm cho ra kho tàng bí mật. Người đó là cụ ông Nguyễn Văn Tiệp, 96 tuổi, bán hết tài sản đổ vào công cuộc đào xới ngọn núi, cho dẫu bây giờ tuổi hạc đã gần đất xa trời.
Lý do đằng sau tâm chí bền bỉ là cụ đang sở hữu tấm bản đồ cổ có    ký hiệu kho tàng chôn giấu, tin quyết rằng trước sau gì mình cũng sẽ tìm ra.
Tính từ năm 1993, cụ Tiệp đã bỏ ra cả trăm cây vàng đầu tư vào một cuộc đào xới với hi vọng sẽ tìm ra được 4000 tấn vàng, trị giá 100 tỉ Mỹ Kim. Chính quyền tỉnh Bình Thuận cho phép đến hết năm 2014 là thời hạn cuối. Cầu mong cho cụ thành công!

Chúa Giê-xu từng phán lời ví dụ rằng Nước Thiên Đàng giống như người kia tìm thấy kho tàng trong một đám ruộng, bèn về nhà vui mừng bán hết gia tài để mua cho được đám ruộng đó (Ma-thi-ơ 13:44). Nếu mất hết mọi sự để được sỡ hữu Nước Thiên Đàng, Bạn có sẵn lòng không? Hãy suy nghĩ điều nầy: giả sử hôm nay ta xuôi tay nhắm mắt, mà không sỡ hữu Nước Thiên Đàng, ta sẽ cầm theo được những gì để đi vào cõi đời đời?

DANH THIẾP (BUSINESS CARD)

Danh thiếp hay business card thường được dùng để giới thiệu sơ qua về mình và để người nhận có những chi tiết như số điện thoại hoặc email nhằm giữ liên lạc khi cần đến. Dĩ nhiên cũng có người in danh thiếp nhằm phô trương thành tích, bằng cấp, chức phận v.v…
Mới đây trên mạng internet người ta nói đến một tấm danh thiếp “nổ” nhất thế giới của một nhà tài phiệt Trung quốc, ông Chen Guangbiao (Trần Quang Biểu). Ông là chủ công ty xử lý và tái chế rác, thuộc vào hàng triệu phú. Trên danh thiếp, ông ghi như sau:

“Chen Guangbiao, CEO. Người có tầm ảnh hưởng nhất Trung quốc. Nhà từ thiện nổi bật. Nhà lãnh đạo tinh thần hàng đầu. Anh hùng giải cứu nạn nhân động đất. Người Trung quốc gương mẫu sáng giá và đáng yêu nhất. Một trong 10 tình nguyện viên được kính trọng nhất Trung quốc. Nhà từ thiện uy tín nhất. Chuyên gia bảo vệ môi trường hàng đầu Trung quốc”.

Tưởng rằng chỉ ở thời đại nầy mới có người phô trương trên danh thiếp mình như vậy. Nhưng đọc Lu-ca 18:9-14 chúng ta thấy trong câu chuyện Chúa kể 2000 năm trước có một người Pha-ri-si khi đến đền thờ cầu nguyện, đã trao cho Chúa tấm “danh thiếp” ghi như sau: “Người Pha-ri-si đáng kính. Người thực hiện tất cả điều răn của Đức Chúa Trời. Người kiêng ăn 2 lần mỗi tuần. Người dâng phần mười trung tín nhất. Người có phẩm hạnh đạo đức cao hơn hẳn thành phần thâu thuế đáng khinh dễ”. Trong khi đó tấm “danh thiếp” của người thâu thuế chỉ vỏn vẹn: “Tội nhân. Người cần được Đức Chúa Trời thương xót”.


Hôm nay, để trao tấm danh thiếp của mình cho Chúa, chúng ta sẽ ghi trên đó điều gì nhỉ?

NHẠC SĨ 100 NĂM

Có lẽ rất ít người trên đời làm một công việc lâu dài như Mary Sadler: bà đã từng đánh đàn piano suốt một thế kỷ!

Mary Sadler vừa kỷ niệm sinh nhật thứ 106. Trên tường có treo một tấm bằng cho biết bà đã thi đậu khóa một piano vào năm 1915 lúc hơn 6 tuổi. Bà kể: “Lâu quá rồi, tôi không nhớ tại sao mình lại học đờn dương cầm. Có lẽ theo ý muốn của ba má tôi”.
Trước đây Mary Sadler đã từng đờn suốt 30 năm cho ban nhạc cao niên, nhưng bây giờ chỉ biểu diễn tại nhà khi được yêu cầu. Dẫu đã trên một trăm tuổi mà tiếng đàn vẫn còn sinh động lắm.
Bà tâm sự: “Mấy ngón tay bây giờ chạy lung tung, không còn theo ý mình như trước nữa, nhưng tôi hi vọng người ta vẫn còn thích nghe tôi đàn. Riêng tôi mỗi khi ngồi trước bàn phím đều cảm thấy rất vui!”.


Hơn 3000 năm trước, Vua Đa-vít đã từng tỏ bày tâm nguyện: “Hễ tôi còn sống chừng nào, tôi sẽ hát xướng cho Đức Chúa Trời tôi chừng nấy” (Thi Thiên 146:2). Một đời sống thấm nhuần ân sủng, một tấm lòng đầy ấp tri ơn, luôn ngưỡng vọng và tôn thờ Ngài thì chắc không thể nín lặng được. Dẫu là một trăm năm hay một ngàn năm vẫn không ngừng ca tụng Đấng Yêu Thương!

CON TRỪU CỦA ÔNG VŨ HỒ

Ông Vũ Hồ cư ngụ tại thành phố Dandenong, tiểu bang Victoria (Úc) có nuôi một con trừu tên Baa như gia súc hơn 10 năm mà ông gọi là một “thành viên của gia đình”. Nhưng năm 2011, Hội đồng thành phố thông báo sẽ tịch thu con trừu đó, vì theo họ ông cầm giữ gia súc không đúng luật.
Tức mình, ông Vũ Hồ kiện ra Tòa Thượng Thẩm Victoria, yêu cầu tòa ra án lệnh hủy bỏ quyết định của chính quyền địa phương, nhưng đã bị bác. Không nản lòng, ông kháng án lên Tòa Tái Thẩm Victoria, và cũng thất bại. Cuối cùng ông kiện lên Tòa Án Tối Cao, nhưng rồi ngày 13 tháng 12 năm 2013 Tòa nầy cũng bác đơn kháng án. Bây giờ thì ông sẽ bị tịch thu con trừu, nộp phạt 200 Úc kim và đối diện với chi phí pháp lý có thể lên đến 200.000 đô Úc.
Đang lúc đeo đuổi vụ kiện, ông đã được một số người ủng hộ. Họ làm một thỉnh nguyện thư và kêu gọi nhiều người ký vào để chống lại hành động mà họ cho là ‘dọa nạt’ của Hội đồng Thành phố Dandenong ‘đã xem thường quyền lợi của thú vật, phung phí tiền bạc của người dân trong việc đòi trục xuất con Baa ra khỏi nơi nó đã sống yên lành hơn mười năm qua’. Nhưng rồi luật là luật, ông đành bó tay!
Trừu, hay còn gọi là chiên, là hình bóng về con dân thiên thượng. Chúa Giê-xu ví Ngài như một người chăn hiền lành, sẵn sàng “vì chiên mà phó sự sống mình”. Ngài đã từng phán: “Chiên Ta nghe tiếng Ta, Ta quen nó, và nó theo Ta. Ta ban cho nó sự sống đời đời; nó chẳng chết mất bao giờ, và CHẲNG AI CƯỚP NÓ KHỎI TAY TA” (Giăng 10:27-28). Ông Vũ Hồ không giữ nổi con trừu thân yêu, nhưng Đấng Chủ Tể càn khôn vũ trụ đã tuyên hứa rằng không ai có thể cướp những con chiên trong bầy của Ngài. Bạn hãy vững lòng trong niềm tin cậy đó!


HỌA SĨ GIỎI

Ngày 11 tháng 1 năm 2014, Bà Nguyễn Thị Minh Tâm bị một phụ nữ lạ mặt bắt cóc đứa con khi còn trong khoa sản bịnh viện quận 7, Sài-gòn. Hai ngày sau, chính quyền nhờ một họa sĩ, ông Phan Vũ Linh, đến nghe bà Tâm tường thuật những chi tiết đã nhìn thấy nơi nghi can. Từ những chi tiết được kể lại đó, ông đã phát họa một chân dung mà người ta cho rằng giống người thật đến 90 phần trăm.



Thủ phạm bắt cóc là cô Lê Thị Bích Trâm ở huyện Bình Chánh. Vì lỡ nói dối mình đang mang thai, cần có một đứa con để “trình diện” nhà chồng, cô đã đến bịnh viện, giả làm thân nhân bà Tâm, và ẩm đứa bé trốn đi.
Khi bức họa được tung lên báo chí gia đình của cô Bích Trâm sững sờ nhận ra ngay. Những người hàng xóm cũng biết và báo cho công an. Chỉ một thời gian ngắn, tất cả đều bị lộ diện nhờ vào bức hình ông Phan Vũ Linh đã vẽ. Thật là một họa sĩ có tài!

Ước mong lớn nhất của sứ đồ Phao-lô ngày xưa là “trở nên giống Chúa”! Có người ví von rằng: nếu một người mô tả Phao-lô cho họa sĩ vẽ, thì bức họa Phao-lô sẽ càng lúc càng trở nên giống chân dung của Chúa Giê-xu nhiều hơn. Và đó chính là tâm nguyện của người đã gặp Chúa và phó thác cả cuộc đời mình cho Ngài!

“…Tôi được biết Ngài, quyền phép sự sống lại của Ngài, và sự thông công thương khó của Ngài, làm cho tôi nên giống như Ngài trong sự chết Ngài” Phil 3:10

17 TRIỆU NGƯỜI NGHÈO KHỔ

Hệ thống tuyên truyền của Việt Nam vẫn thường đưa ra những con số thống kê nhằm phô trương thành tích “xóa đói giảm nghèo”. Nhưng thực tế một số rất lớn người dân ở nước ta kiếm không đủ sống.
Năm 2013 theo tường trình nhà nước, lợi tức trung bình hằng năm tính theo đầu người là 1900 đô Mỹ. Năm sau, 2014 báo chí khoe lợi tức người dân là 1540 đô và dự phóng đến năm 2015 sẽ vượt quá 2000 đô la mỗi năm. Từ những con số nầy nhà cầm quyền đã ‘hồ hởi’ tuyên bố rằng từ 2010 Việt Nam đã thoát ra khỏi danh sách của một trong những nước nghèo.
Nhưng theo tổ chức Lao Động Quốc Tế (ILO) hiện nay ở nước ta còn khoảng 17 triệu người mỗi ngày chỉ kiếm được 40.000 đồng VN, hay dưới 2 đô-la. Với số tiền nầy chỉ tạm đủ hai bữa ăn cơ cực. Ngoài ra còn có 23 triệu người khác vẫn còn ở mức ‘cận nghèo’ nghĩa ra rất dễ rơi xuống mức tận cùng. Dân số 90 triệu mà người nghèo chiếm hết 40 triệu, thì đồng bào ta vẫn còn khốn khổ lắm!
Hơn hai thập niên qua, nhiều tổ chức quốc tế đã đổ những số tiền rất lớn vào Việt Nam để giúp ‘xóa đói giảm nghèo’, nhưng không biết số viện trợ nầy đi về đâu, mà cho đến nay nhiều người vẫn sống trong cảnh túng quẩn với 2 đô-la mỗi ngày, chỉ tạm đủ hai bữa ăn, không thể sắm một bộ quần áo mới, mua một vé xem phim. Ấy là chưa nói đến thuốc men khi đau ốm hay bồi dưỡng sau những ngày bịnh hoạn.

Sống trong nước Úc sung túc, chúng ta nhiều khi quen dần với sự giàu có, dư dật, mà quên rằng có rất nhiều người nghèo khốn trên địa cầu nầy. Và từ đó lòng biết ơn Đấng Quan Phòng cũng nguội lạnh, thờ ơ. Ước gì mỗi buổi sáng thức giấc, ngửa nhìn lên cao mà thưa với Chúa một lời cảm tạ: “Tôi ngước mắt lên trên núi, sự tiếp trợ tôi đến từ đâu? Sự tiếp trợ tôi đến từ Đức Giê-hô-va…” (Thi Thiên 121)

NHỮNG CHIẾC KHÓA TÌNH YÊU

Có dịp đi ngang qua chiếc cầu tên Southgate dành riêng cho khách bộ hành ở sông Yarra (Melbourne) Bạn sẽ thấy có rất nhiều ổ khóa treo trên thành cầu đó. Đây là nơi thu hút du khách, nhất là những cặp tình nhân, bằng hữu thâm giao hay vợ chồng đầm ấm đến để bày tỏ tình yêu nồng cháy bằng cách gắn vào thành cầu một ổ khóa, bóp chặt lại, và sau khi thề non hẹn biển, thì họ quăng chìa khóa xuống dòng sông Yarra êm đềm, chứng thực rằng từ nay giữa họ không còn thể nào phân rẽ nữa!
Chiêu thức nầy đã trở nên hiện tượng phổ biến nhiều nơi trên thế giới, bắt đầu từ thành phố Rome năm 2000, khi những cặp tình nhân chịu ảnh hưởng bởi một cuốn tiểu thuyết viết bằng tiếng Ý, trong đó hai người yêu nhau đã gắn một ổ khóa tình yêu trên cầu Ponte Milvio và thảy chìa xuống dòng Tiber thơ mộng. Du hành đến những nơi như Florence, Paris, Brooklyn Bridge ở New York hoặc Harbour Bridge ở Sydney ta sẽ bắt gặp ổ khóa được treo tại đó, càng lúc càng nhiều hơn. Riêng tại Melbourne, người ta ghi nhận thời gian qua, ngoài những ổ khóa có khi du khách còn gắn vào đó vòng xe đạp, dây xích hoặc những dây nhựa nhiều màu sắc, làm cho chỗ kỷ niệm nầy thêm rực rỡ.
Nhưng vừa rồi ông David Cumming, đại diện hội đồng thành phố Melbourne, đã lên tiếng rằng việc gắn quá nhiều kỷ vật bằng sắt vào thành cầu sẽ làm tăng sức nặng và giảm mức độ an toàn, cho nên hội đồng đang xem xét nên giữ lại hay là gỡ đi tất cả những ổ khóa tình yêu đó. Nếu vậy, thì lời nguyền son sắt có còn hiệu nghiệm nữa chăng?

Thánh Kinh có nói đến một ổ khóa tình yêu giữa Chúa với chúng ta. Ổ khóa nầy bền chặt đến nỗi không có quyền lực nào, dù là siêu nhiên đến mấy, có thể tách rời nổi. Mời Bạn đọc Rô-ma 8:38: “Vì tôi chắc rằng bất kỳ sự chết, sự sống, các thiên sứ, các kẻ cầm quyền, việc bây giờ, việc hầu đến, quyền phép, bề cao hay là bề sâu, hoặc một vật nào, chẳng có thể phân rẽ chúng ta khỏi sự yêu thương mà Đức Chúa Trời đã chứng cho chúng ta trong Đức Chúa Giê-xu Christ, là Chúa chúng ta”. Bạn đã nối kết cuộc đời mình vào tình yêu đó?