Người
Việt Nam là một trong những dân tộc chịu nhiều đau khổ nhất trên thế
giới. Chiến tranh, áp bức, nghèo thiếu là những nỗi đau khó phai mờ trong
lòng dân tộc. Nhưng người Việt cũng là một dòng giống có đức tính chịu
đựng, khoan dung, tha thứ, có sức mạnh tinh thần, kiên cường bất khuất, có
truyền thống gia đình hiếu thảo tốt đẹp. Người Việt cũng là dân tộc “tâm
linh”. Phần lớn đồng bào ta đều có đạo và sùng đạo, nhất là việc thờ cúng ông
bà, cha mẹ. Chúng ta xem đó như một tôn giáo. Bởi thế, rất nhiều người cho rằng
những tín đồ của Chúa chủ trương không lập bàn thờ, không cúng giỗ là không
hiếu kính cha mẹ. Đây là một trong những hiểu lầm đáng tiếc.
Có phải tin Chúa là bất hiếu vì bỏ ông bà, cha mẹ
không?
Câu trả lời khẳng định là không! Cho rằng người tin
Chúa bất hiếu, bỏ ông bà cha mẹ là do thành kiến. Thành kiến nầy đến từ cách
người Tin Lành bày tỏ lòng hiếu thảo đối với cha mẹ, tổ tiên. Người Tin
Lành biểu lộ sự hiếu thảo đối với ông bà cha mẹ là khi còn sống. Lúc qua đời
con cháu phải lo chôn cất chu đáo theo nghi lễ trang nghiêm, trong tinh thần
tiếc thương, hy vọng, ngoài ra không nhang đèn, không lập bàn thờ bài vị, không
van vái, không cúng bái người đã chết. Có lẽ vì không làm theo phong tục
cổ truyền đối với người quá cố như những người khác nên bị hiểu lầm là bỏ ông bà
cha mẹ, là bất hiếu.
Tôn
giáo nào cũng dạy con người đạo hiếu thảo vì đó là nền tảng cho sự sinh tồn của
nhân loại. Tin Lành là Đạo KÍNH CHÚA – YÊU NGƯỜI, lấy lời Đức Chúa Trời
làm mẫu mực thiêng liêng cho cuộc sống, lại càng dạy dỗ, khuyên bảo tín hữu hết
lòng hiếu kính đúng như lời Chúa dạy.
Trong
Thánh Kinh, Đức Chúa Trời dạy rõ: “Phải hiếu kính cha mẹ, như vậy ngươi được
sống lâu trên đất Chúa Hằng Hữu, Đức Chúa Trời ban cho” (Xuất 20:12) và “Ai đánh đập, chửi rủa cha mẹ, phải
bị xử tử” (Xuất 21:15, 17). Chúa Giê-xu đã lên án
thái độ giả hình của những người mượn lý do tôn giáo để bỏ bê bổn phận đối với
cha mẹ. Sứ đồ Phao-lô cũng liệt kê hành động bội nghịch cha mẹ như là tội
ác của nhân loại. Ông khuyên “Con cháu trước phải học làm
điều hiếu thảo với nhà riêng mình và báo đáp cha mẹ” (I Ti-mô-thê 5:4). Ông cũng nhắc lại điều răn Chúa dạy: “Phải
hiếu kính cha mẹ, là điều răn đầu tiên có kèm theo lời hứa nhờ đó con mới được
phước và sống lâu trên đất” (Ê-phê-sô 6:1-3). Nói
cách khác, một người Tin Lành muốn phước hạnh và trường thọ phải thực lòng hiếu
kính cha mẹ theo như lời Đức Chúa Trời dạy.
Thế
tại sao Tin Lành không cúng bái, không thờ lạy người quá cố? Người Tin
lành cũng là người Việt Nam biết tôn trọng truyền thống văn hóa tốt đẹp của
tiền nhân để lại, nhưng những phong tục nào không phù hợp với lời Chúa dạy thì không
thể vâng theo.
Thánh
Kinh dạy rõ: “Lúc trước anh em đương còn tối tăm, nhưng
bây giờ đã trở nên người sáng láng trong Chúa. Hãy xét điều chi vừa lòng Chúa và chớ dựa vào công việc vô
ích của sự tối tăm” (Ê-phê-sô 5:8-11). Lời Chúa
dạy người tín đồ phải hết lòng yêu thương, vâng lời, giúp đỡ, phụng dưỡng cha
mẹ khi tuổi già sức yếu, đồng thời tôn kính tổ tiên, giữ danh thơm tiếng tốt
cho gia đình, dòng họ. Chữ hiếu chỉ có giá trị đích thực khi con cháu bày
tỏ lòng hiếu thảo, báo đáp lúc cha mẹ còn sống.
Một
món ăn ngon lúc đói lòng, cái áo ấm khi trời lạnh, lon sữa, thuốc men khi ốm
đau, lời thăm hỏi ân cần khi buồn bã thiết tưởng có giá trị muôn phần hơn mâm
cao cổ đầy và tiếng khóc than thảm thiết lúc ông bà cha mẹ đã khuất. Bởi
vì khi họ qua đời thì lập tức bước vào cõi vĩnh hằng do Chúa quyết định.
Nếu đã tin thờ Chúa thì được hưởng nước thiên đàng như lời Chúa Giê-xu phán “Hỡi
các ngươi được Cha ta ban phước, hãy đến mà nhận lấy nước thiên đàng đã sắm
sẵn trước cho các ngươi từ khi dựng nên trời đất.” (Ma-thi-ơ 25:34). Nếu không tin thờ Chúa thì chờ ngày Chúa
phán xét công bình như Kinh Thánh khẳng định: “Theo như đã
định cho loài người phải chết một lần rồi chịu phán xét” (Hê-bơ-rơ 9:27). Ông bà, cha mẹ dù yêu thương chúng ta bao
nhiêu đi nữa, khi đã qua đời, thì không còn liên lạc gì với trần gian, không có
quyền ban phước hay giáng họa, không hưởng được lễ vật từ sự cúng bái. Tất
cả những phước hạnh chúng ta thụ hưởng đều hoàn toàn do Đức Chúa Trời ban cho.
Chúng ta phải hết lòng biết ơn Ngài, thờ phượng Ngài, cầu khẩn với Ngài mới là
phải lẽ. Người xưa có nói: “Sống không cho ăn, chết làm
văn tế ruồi”. Vả lại khi con cháu cúng giỗ, không hề có chuyện người
chết về ăn, chỉ có người sống ăn uống với nhau, đôi khi trở thành dịp nhậu
nhẹt, rồi sanh ra cãi cọ rầy rà không hay. Giả sử người chết hưởng được
của cúng thì liệu người sống có còn bình tĩnh ngồi ăn không? Nếu bảo phải
thắp nhang đèn, phải lập bàn thờ, bài vị, phải cúng giỗ theo lối cổ truyền mới
có hiếu, thế thì có bao nhiêu dân tộc khác ở Âu châu, Mỹ châu, Úc châu và cả
Phi châu không làm như vậy, thì họ bất hiếu cả sao?
Dầu
người tin Chúa không cúng giỗ nhưng cũng có thể tổ chức ngày kỷ niệm truyền
thống gia đình. Ngày họp mặt truyền thống đó, con cháu nhắc đến công ơn
ông bà cha mẹ, cầu nguyện tạ ơn Chúa, xin Ngài ban bình an, sức khỏe cho người
thân còn sống. Người Tin Lành tôn trọng và thường xuyên thăm viếng, chăm sóc
mồ mả tổ tiên. Do ảnh hưởng của Cơ-đốc-giáo dạy mà nghĩa trang của các nước
Âu Mỹ theo đạo Chúa được chăm sóc chu đáo, đẹp đẽ chẳng khác nào những công
viên tươi đẹp.
Người
Tin Lành tin rằng loài người phải hết lòng thờ phượng Đức Chúa Trời theo như
lời Chúa dạy trong Kinh Thánh mới là thờ đầy đủ. Chúa là Đấng Tạo Hóa và
bảo tồn vạn vật, cũng là Đấng cầm giữ họa phước trên đời sống nhân loại.
Thờ phượng Đức Chúa Trời giống như tưới vào gốc cây là tưới được cả cây, chứ
không phải chỉ tưới cành, tưới ngọn. Vả lại, điều răn của Chúa dạy phải
được tôn trọng:“Trước mặt Ta ngươi chớ có các thần khác” (Xuất 20:3).
Người
tin Chúa phải là người hiếu thảo theo cách đúng và thực tế như sự dạy dỗ của
Đấng Tạo Hóa, Nguồn Cội của càn khôn vũ trụ.