Tuesday, 30 August 2016

CHỢ ĐEN CƠ PHẬN

Ở Úc có hơn 1500 bệnh nhân đang chờ được ghép thận. Mặc dầu hiện nay có trên 6 triệu người tình nguyện hiến tặng cơ phận sau khi chết, nhưng người bệnh thường phải chờ trung bình 3 năm mới có thận để thay thế. Vì chờ đợi quá lâu, nhiều người quyết định mua thận chợ đen ở nước ngoài thay vì phải chết trước khi được hiến tặng.
Nơi người bệnh tại Úc thường đến để tìm cơ phận thay thế là Trung quốc, Sri Lanka, Pakistan và nhất là Phi-luật-tân (Philipines). Trong những khu ổ chuột ở đất nước nghèo thiếu nầy, nhiều người đồng ý bán vài phần thân thể cho con buôn chợ đen để thoát cảnh bần cùng. Bọn môi giới sẽ liên lạc ra giá với người mua tại Úc. Sau khi thương lượng thành công, bệnh nhân sẽ vào một bệnh viện của Phi-luật-tân để được giải phẩu. Nếu chuyện nầy bị tiết lộ, họ có thể bị truy tố và mang án tù dài hạn.
Một người Úc mua thận thường tốn 120.000 đến 200.000 dollars. Nhưng người bán chỉ nhận được khoảng 1000 hay 1500 đô. Số còn lại rơi vào tay bọn con buôn, các bác sĩ và viên chức chính quyền để bao che cho việc làm phạm pháp, vô nhân đạo nầy. Bệnh nhân Úc được ghép thận chợ đen sau khi quay về nước thường mang theo những biến chứng nghiêm trọng, chính phủ lại phải tốn hàng chục ngàn dollars để tiếp tục điều trị.
Chúng ta từng nghe nói những tổ chức tội phạm tại Mễ-tây-cơ hay ở Trung Đông giết chết nhiều người tị nạn hoặc tù chính trị để lấy cơ phận bán cho bệnh nhân ở nước giàu có. Biết bao xác người bị phanh thây vô thừa nhận là bằng chứng cho thấy tội ác của những tổ chức kinh doanh trên thân thể đồng loại. Ngay cả ở Úc, dầu luật pháp gắt gao mà vẫn còn chỗ hở cho những người đi ra nước ngoài mua ghép cơ phận rồi trở về làm hao tốn công quỹ nhà nước mà vẫn không bi rắc rối với pháp luật. Có bao giờ họ nghĩ rằng để kéo dài sự sống của mình bằng tiền bạc cũng có thể là đã chấm dứt cuộc đời của một người khốn khổ nào đó?

Việc hiến tặng và nhận lãnh cơ phận không đi ngược lại sự dạy dỗ của Kinh Thánh. Chúa Giê-xu đã phán: “Chẳng có sự yêu thương nào lớn hơn là vì bạn hữu mà phó sự sống mình” (Giăng 15:13). Ngài cũng đã hiến tặng sự sống trên thập tự giá để cứu rỗi nhân loại. Nhưng tất cả, dù cho hay nhận, cũng đều với mục đích cao cả là “làm vinh hiển Đức Chúa Trời”. Đó mới chính là ý chỉ tốt lành đến từ thiên thượng!

Wednesday, 10 August 2016

CÓ PHẢI TIN CHÚA LÀ BẤT HIẾU VỚI TỔ TIÊN, CHA MẸ?

Người Việt Nam là một trong những dân tộc chịu nhiều đau khổ nhất trên thế giới.  Chiến tranh, áp bức, nghèo thiếu là những nỗi đau khó phai mờ trong lòng dân tộc.  Nhưng người Việt cũng là một dòng giống có đức tính chịu đựng, khoan dung, tha thứ, có sức mạnh tinh thần, kiên cường bất khuất, có truyền thống gia đình hiếu thảo tốt đẹp.  Người Việt cũng là dân tộc “tâm linh”. Phần lớn đồng bào ta đều có đạo và sùng đạo, nhất là việc thờ cúng ông bà, cha mẹ. Chúng ta xem đó như một tôn giáo. Bởi thế, rất nhiều người cho rằng những tín đồ của Chúa chủ trương không lập bàn thờ, không cúng giỗ là không hiếu kính cha mẹ. Đây là một trong những hiểu lầm đáng tiếc.
Có phải tin Chúa là bất hiếu vì bỏ ông bà, cha mẹ không?
Câu trả lời khẳng định là không! Cho rằng người tin Chúa bất hiếu, bỏ ông bà cha mẹ là do thành kiến. Thành kiến nầy đến từ cách người Tin Lành bày tỏ lòng hiếu thảo đối với cha mẹ, tổ tiên.  Người Tin Lành biểu lộ sự hiếu thảo đối với ông bà cha mẹ là khi còn sống. Lúc qua đời con cháu phải lo chôn cất chu đáo theo nghi lễ trang nghiêm, trong tinh thần tiếc thương, hy vọng, ngoài ra không nhang đèn, không lập bàn thờ bài vị, không van vái, không cúng bái người đã chết.  Có lẽ vì không làm theo phong tục cổ truyền đối với người quá cố như những người khác nên bị hiểu lầm là bỏ ông bà cha mẹ, là bất hiếu.
Tôn giáo nào cũng dạy con người đạo hiếu thảo vì đó là nền tảng cho sự sinh tồn của nhân loại.  Tin Lành là Đạo KÍNH CHÚA – YÊU NGƯỜI, lấy lời Đức Chúa Trời làm mẫu mực thiêng liêng cho cuộc sống, lại càng dạy dỗ, khuyên bảo tín hữu hết lòng hiếu kính đúng như lời Chúa dạy. 
Trong Thánh Kinh, Đức Chúa Trời dạy rõ:  “Phải hiếu kính cha mẹ, như vậy ngươi được sống lâu trên đất Chúa Hằng Hữu, Đức Chúa Trời ban cho” (Xuất 20:12) và “Ai đánh đập, chửi rủa cha mẹ, phải bị xử tử” (Xuất 21:15, 17).  Chúa Giê-xu đã lên án thái độ giả hình của những người mượn lý do tôn giáo để bỏ bê bổn phận đối với cha mẹ.  Sứ đồ Phao-lô cũng liệt kê hành động bội nghịch cha mẹ như là tội ác của nhân loại.  Ông khuyên “Con cháu trước phải học làm điều hiếu thảo với nhà riêng mình và báo đáp cha mẹ” (I Ti-mô-thê 5:4).  Ông cũng nhắc lại điều răn Chúa dạy:  “Phải hiếu kính cha mẹ, là điều răn đầu tiên có kèm theo lời hứa nhờ đó con mới được phước và sống lâu trên đất” (Ê-phê-sô 6:1-3).  Nói cách khác, một người Tin Lành muốn phước hạnh và trường thọ phải thực lòng hiếu kính cha mẹ theo như lời Đức Chúa Trời dạy.
Thế tại sao Tin Lành không cúng bái, không thờ lạy người quá cố?  Người Tin lành cũng là người Việt Nam biết tôn trọng truyền thống văn hóa tốt đẹp của tiền nhân để lại, nhưng những phong tục nào không phù hợp với lời Chúa dạy thì không thể vâng theo.
Thánh Kinh dạy rõ:  “Lúc trước anh em đương còn tối tăm, nhưng bây giờ đã trở nên người sáng láng trong Chúa. Hãy xét điều chi vừa lòng Chúa và chớ dựa vào công việc vô ích của sự tối tăm” (Ê-phê-sô 5:8-11).  Lời Chúa dạy người tín đồ phải hết lòng yêu thương, vâng lời, giúp đỡ, phụng dưỡng cha mẹ khi tuổi già sức yếu, đồng thời tôn kính tổ tiên, giữ danh thơm tiếng tốt cho gia đình, dòng họ.  Chữ hiếu chỉ có giá trị đích thực khi con cháu bày tỏ lòng hiếu thảo, báo đáp lúc cha mẹ còn sống.
Một món ăn ngon lúc đói lòng, cái áo ấm khi trời lạnh, lon sữa, thuốc men khi ốm đau, lời thăm hỏi ân cần khi buồn bã thiết tưởng có giá trị muôn phần hơn mâm cao cổ đầy và tiếng khóc than thảm thiết lúc ông bà cha mẹ đã khuất.  Bởi vì khi họ qua đời thì lập tức bước vào cõi vĩnh hằng do Chúa quyết định.  Nếu đã tin thờ Chúa thì được hưởng nước thiên đàng như lời Chúa Giê-xu phán “Hỡi các ngươi được Cha ta ban phước, hãy đến mà nhận lấy nước thiên đàng đã sắm sẵn trước cho các ngươi từ khi dựng nên trời đất.” (Ma-thi-ơ 25:34).  Nếu không tin thờ Chúa thì chờ ngày Chúa phán xét công bình như Kinh Thánh khẳng định:  “Theo như đã định cho loài người phải chết một lần rồi chịu phán xét” (Hê-bơ-rơ 9:27).  Ông bà, cha mẹ dù yêu thương chúng ta bao nhiêu đi nữa, khi đã qua đời, thì không còn liên lạc gì với trần gian, không có quyền ban phước hay giáng họa, không hưởng được lễ vật từ sự cúng bái.  Tất cả những phước hạnh chúng ta thụ hưởng đều hoàn toàn do Đức Chúa Trời ban cho.  Chúng ta phải hết lòng biết ơn Ngài, thờ phượng Ngài, cầu khẩn với Ngài mới là phải lẽ.  Người xưa có nói:  “Sống không cho ăn, chết làm văn tế ruồi”.  Vả lại khi con cháu cúng giỗ, không hề có chuyện người chết về ăn, chỉ có người sống ăn uống với nhau, đôi khi trở thành dịp nhậu nhẹt, rồi sanh ra cãi cọ rầy rà không hay.  Giả sử người chết hưởng được của cúng thì liệu người sống có còn bình tĩnh ngồi ăn không?  Nếu bảo phải thắp nhang đèn, phải lập bàn thờ, bài vị, phải cúng giỗ theo lối cổ truyền mới có hiếu, thế thì có bao nhiêu dân tộc khác ở Âu châu, Mỹ châu, Úc châu và cả Phi châu không làm như vậy, thì họ bất hiếu cả sao? 
Dầu người tin Chúa không cúng giỗ nhưng cũng có thể tổ chức ngày kỷ niệm truyền thống gia đình.  Ngày họp mặt truyền thống đó, con cháu nhắc đến công ơn ông bà cha mẹ, cầu nguyện tạ ơn Chúa, xin Ngài ban bình an, sức khỏe cho người thân còn sống.  Người Tin Lành tôn trọng và thường xuyên thăm viếng, chăm sóc mồ mả tổ tiên.  Do ảnh hưởng của Cơ-đốc-giáo dạy mà nghĩa trang của các nước Âu Mỹ theo đạo Chúa được chăm sóc chu đáo, đẹp đẽ chẳng khác nào những công viên tươi đẹp. 
Người Tin Lành tin rằng loài người phải hết lòng thờ phượng Đức Chúa Trời theo như lời Chúa dạy trong Kinh Thánh mới là thờ đầy đủ.  Chúa là Đấng Tạo Hóa và bảo tồn vạn vật, cũng là Đấng cầm giữ họa phước trên đời sống nhân loại.  Thờ phượng Đức Chúa Trời giống như tưới vào gốc cây là tưới được cả cây, chứ không phải chỉ tưới cành, tưới ngọn.  Vả lại, điều răn của Chúa dạy phải được tôn trọng:“Trước mặt Ta ngươi chớ có các thần khác” (Xuất 20:3).

Người tin Chúa phải là người hiếu thảo theo cách đúng và thực tế như sự dạy dỗ của Đấng Tạo Hóa, Nguồn Cội của càn khôn vũ trụ.

Tuesday, 9 August 2016

ĐỨNG DẬY VÀ BƯƠN TỚI

Nhân Thế Vận Hội Rio 2016, xin nhắc lại hình ảnh cũ rất bi tráng của một vận động viên người Mỹ từng được mệnh danh là “Nhà Thể Thao Can Đảm Nhất Hoàn Vũ”.
Heather Dormiden là một nữ lực sĩ điền kinh.  Bộ môn chạy đua nầy đòi hỏi tốc độ, không những tính bằng phút, bằng giây và cả bằng “sao” (một giây bằng 100 sao). Thế mà trong trận đua tốc lực 600 mét vào tháng 3 năm 2008, khi còn 200 thước cuối, Heather Dormiden đã chạm phải một vận động viên khác và té sỏng soài trên đường chạy. Ở trường hợp nầy, đa số đều bỏ cuộc, ôm mặt khóc, hoặc hoàn tất đoạn đường còn lại trong nỗi tuyệt vọng. Lúc bấy giờ cô đã bị bỏ rơi hơn 30 mét.
Nhưng lạ thay, Heather đứng lên, tiếp tục chạy với sức mạnh phi thường. Trong tiếng reo hò cổ vũ của khán giả, cô sãi chân bằng tốc độ nhanh hơn, mạnh mẽ hơn, lần lượt vượt qua hết người nầy đến người khác. Ở mức cuối cùng, cô đã về nhì, sau người hạng nhất chỉ trong tích tắc, trước sự kinh ngạc và tiếng vỗ tay không dứt của hàng ngàn khán giả.
Heather Dormiden phát biểu: “Đó là kỷ niệm rất đáng nhớ trong đời tôi. Dường như có một quyền lực từ trên cao. Tôi cảm thấy Chúa đổ thêm sức mạnh, cho tôi một cơ hội để chứng minh rằng những điều kỳ diệu có thể xảy đến trong ân sủng của Ngài, dù hoàn cảnh bi đát nhất”.
Bạn thân mến, dẫu biết rằng cuộc sống là không công bằng và ta vẫn thường xuyên vấp ngã. Nhưng nếu dám chấp nhận rủi ro, dám tiến lên trong những thời điểm khó khăn nhất, dám đối mặt với kẻ bắt nạt, nâng đỡ người bị áp bức và không bao giờ nản lòng, bỏ cuộc. Làm được những việc gian truân này, chúng ta và các thế hệ nối tiếp sẽ sống trong một thế giới tốt hơn, một thế giới công bằng, vị tha và thịnh vượng.

Ba ngàn năm trăm năm trước, Thiên Chúa đã phán một lời khích lệ nhà lãnh đạo trẻ tuổi khi ông dẫn dân sự vào miền đất hứa: “Ta há không có phán dặn ngươi sao? Hãy vững lòng, bền chí, chớ run sợ, chớ kinh khủng, vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi vẫn ở cùng ngươi trong mọi nơi ngươi đi”. (Giô-suê 1:9). Hãy đứng dậy, và bươn tới, Bạn nhé!

Monday, 8 August 2016

THIỀN SƯ BANKEI

Vào thế kỷ 17, thiền sư Bankei mở trường thâu nhận đệ tử đến tu học. Môn đồ khắp nước Nhật quy tụ đông đảo, vì ngài rất đạo hạnh và tri thức.
Một hôm, các đệ tử bắt gặp một môn sinh phạm tội ăn cắp. Sự việc được trình lên thiền sư, xin ngài trục xuất. Bankei bỏ qua. Ít lâu sau, họ lại bắt gặp quả tang người ấy ăn cắp. Nhưng một lần nữa, Bankei lại bỏ qua. Ai ai cũng bất bình, đến nỗi họ đồng lòng làm một thỉnh nguyện thư đòi đuổi tên ăn cắp bỉ ổi đó, nếu không họ sẽ cùng nhau rời khỏi thiền viện.
Sau khi xem qua thỉnh nguyện thư, Bankei triệu tập tất cả môn sinh lại và nói: “Các vị tất cả đều là những người sáng suốt. Các vị có thể phân biệt điều nào đúng, điều nào sai. Các vị có thể tìm nơi khác vừa ý hơn để tu học. Nhưng vị sư đệ nầy chưa thấu hiểu đâu là lẽ phải, đâu là điều lầm lỗi. Ngoài ta ra, chẳng có ai chịu nhận dạy bảo anh ấy. Ta sẽ giữ anh ấy lại đây, dù các vị có bỏ ta mà đi”. Tất cả đều xúc động, bùi ngùi xin ở lại. Và trên gương mặt người đệ tử hư hỏng kia, một suối lệ tuôn trào. Từ đấy không còn ai tham lam, ăn cắp của người khác nữa!
Tấm lòng nhân hậu của thiền sư Bankei quả là mầu nhiệm. Cửa thiền đâu chỉ dành cho những nhà đạo đức, những người tốt lành. Nơi ấy là chốn đón mời kẻ lầm đường, lạc lối để hoán cải họ trở nên chân thật.
Hai ngàn năm trước, một người đàn bà lăng loàn bị bắt tại trận khi đang phạm tội, sắp bị ném đá. Đám đông hỏi ý của Chúa Giê-xu, Ngài bảo họ: “Ai trong các ngươi là người vô tội, hãy trước nhứt ném đá vào người”. Câu trả lời kỳ diệu đã cứu người phụ nữ khỏi chịu án tử hình. Khi mọi người bỏ đi, Ngài phán với bà: “Ta cũng không định tội ngươi, hãy đi, đừng phạm tội nữa!”. Lời phán ấy đã thay đổi cuộc đời một con ngươi hư hỏng, lầm lỡ.

Đây là sứ mệnh của Chúa Giê-xu khi giáng thế làm người: “Thần của Chúa ngự trên Ta, vì Ngài đã xức dầu cho Ta đặng truyền Tin Lành cho kẻ nghèo; Ngài đã sai Ta để rao cho kẻ cầm được tha, kẻ mù được sáng, kẻ bị hà hiếp được tự do, và để đồn ra năm lành của Chúa” (Phúc Âm Lu-ca 4:18-19). Sứ mệnh thiêng liêng đó được con dân Ngài tiếp nối thi hành trên mọi miền, mọi dân tộc, nhằm biến đổi thế giới nầy tươi đẹp hơn.

Tuesday, 2 August 2016

BI KỊCH CỦA CUỘC ĐỜI-THẦN THOẠI SISYPHUS

      BI KỊCH CỦA CUỘC ĐỜI - THẦN THOẠI SISYPHUS

 

        Sisyphus là một truyện thần thoại trong văn chương Hi-lạp. Chuyện kể rằng Sisyphus là một người khôn ngoan và hiểu biết nhất trong thế giới loài người. Nhưng ông bị án tử hình vì tội khinh mạng các vị thần.

        Trước khi chết, Sisyphus đã dại dột thử thách tình yêu của vợ. Ông yêu cầu nàng phơi xác của mình giữa quãng trường công cộng. Khi đến âm phủ, biết sự vâng lời của vợ vượt quá lẽ thường tình của một con người, ông giận dữ xin Diêm Vương cho mình được phép trở về sửa trị cô ta. Về dương thế, Sisyphus nhìn lại vẻ đẹp hùng vĩ, thơ mộng của trần gian, chàng ta thích thú quá nên lần lữa mãi, không chịu quay lại cõi âm ti, dù rất nhiều lần Diêm Vương hiệu triệu. Cuối cùng, âm phủ quyết định phải dùng đến bạo lực.

         Để trừng phạt kẻ ngoan cố, các vị thần bắt Sisyphus suốt đời vác một khối đá lên đầu ngọn núi. Khi vừa đến đỉnh, với sức nặng nghìn cân, tảng đá lăn xuống dưới chân núi, chàng ta lại phải trở xuống vác lên. Cứ như vậy mãi, ngày nầy sang ngày khác, không bao giờ thoát khỏi hình phạt.

        Huyền thoại Sisyphus diễn tả bi kịch của đời người. Dù có trí tuệ tuyệt đỉnh, con người chỉ sống bằng những tháng ngày lặp đi lặp lại cách vô nghĩa. Miệt mài làm việc để đạt điều mơ ước, khi buông ra, tất cả như lao xuống vực thẳm, rồi phải tiếp tục không ngừng xây dựng những đòi hỏi của cuộc đời, ngày nầy qua tháng nọ, đến lúc xuôi tay nhắm mắt cũng chưa hẳn cất bỏ được nỗi nhọc nhằn của kiếp nhân sinh. Bởi thế, trong thâm tâm con người nuôi một thắc mắc khôn nguôi: Sống để làm gì? Tại sao tôi phải hiện hữu trong cuộc đời vô nghĩa nầy? Phải chăng tôi sinh ra chỉ để mang kiếp đọa đày? Một số người tự kết liễu cuộc đời, người khác thì bám víu vào những hào nhoáng giả tạo vật chất, hư danh. Cũng có người tìm câu giải đáp ở niềm tin tôn giáo, triết học. Tất cả chỉ là trốn chạy, ép mình cho đến hết tháng ngày dương thế, thầm mong ước như nhà thơ Nguyễn Công Trứ từng thốt lên ‘Kiếp sau xin chớ làm người, làm cây thông đứng giữa trời mà reo’.

        Vậy cuối cùng con người có thể tìm nơi đâu niềm hi vọng cho cuộc đời? Ấy chính là sự yêu thương và lòng bao dung. Triết gia Albert Camus nói: “Có một điều mà ai ai cũng mong muốn, đó chính là tình yêu”. Tình yêu làm thăng hoa tháng ngày trần thế. Yêu và được yêu nâng cao giá trị của cuộc đời và là động lực nhiệm mầu để con người muốn sống dài lâu. ‘Tình yêu thương chẳng hề hư mất bao giờ’ (Thánh Kinh Cơ-đốc).