Thursday, 30 May 2024

CHINH PHỤC ĐỈNH NÚI EVEREST

 

CHINH PHỤC ĐỈNH NÚI EVEREST

Ngày 29 tháng 5 năm 1953, cách nay đúng 71 năm, Hillary người Tân Tây Lan (New Zealand) cùng với nhà leo núi người Nepal, Tenzing Norgay, đã trở thành hai ngưởi đầu tiên của nhân loại leo lên đến đỉnh Everest và quay về an toàn.

Everest nằm trong dãy Hi-mã-lạp-sơn là đỉnh núi cao nhất trên trái đất. Nó cao đến 8848.86 mét so với mực nước biển. Trước kia nhiều người đã bỏ mạng khi cố chinh phục ngọn núi kỳ vĩ nầy, bởi vì độ cao, thời tiết khắc nghiệt và vách đá cheo leo hiểm trở. Có khi chỉ còn cách vài trăm mét nữa là có thể dẫm chân trên đỉnh mà phải bỏ cuộc, không chịu nổi sự hiểm nguy còn lại.

Edmund Hillary sinh ngày 20 tháng 7 năm 1919 tại một làng nhỏ ở thành phố Aucland. Vì có thân hình nhỏ con so với bạn cùng trường nên tỏ ra nhút nhát, thích vùi đầu vào những quyển sách và có ước mơ trở thành một nhà thám hiểm. Đến năm 16 tuổi, Hillary nhận ra niềm yêu thích leo núi, biết mình có sức chịu đựng hơn những người khác. Năm 1943 ông tham gia không quân hoàng gia New Zealand, trở thành phi công, nhưng bị bỏng nặng trong một tai nạn, phải giải ngũ.

Năm 1953, Hillary được một đoàn thám hiểm người Anh mời tham gia chuyến leo núi chinh phục đỉnh Everest, ông nhận lời ngay. Họ chia thành nhiều toán, vượt qua nhiều hiểm trở tưởng chừng mất mạng. Có toán chỉ còn cách đỉnh 100 mét vẫn phải bỏ cuộc quay về. Hillary và Tenzing xin được cố gắng lần cuối. Hai người đã leo lên tới đỉnh vào lúc 11 giờ 30 phút sáng 29 tháng 5 năm 1953.

Hillary và Tenzing chỉ đứng trên đỉnh núi Everest 15 phút, chụp vài tấm hình, để lại trên tuyết vài thỏi sô-cô-la như một lễ vật. Hillary đặt nơi đó một cây thánh giá mình đã mang theo. Tin tức thành công nầy được truyền đi đúng ngày nữ hoàng Elizabeth II lên ngôi. Cả thế giới đều ca ngợi cuộc chinh phục huyền thoại nầy.

Những tháng ngày sau đó, Hillary đã trèo lên 10 đỉnh núi khác của dãy Hi-mã-lạp-sơn. Năm 1958 ông đặt chân đến Nam Cực. Năm 1985 ông hạ cánh máy bay xuống Bắc Cực. Vậy ông đã trở thành người đầu tiên có mặt trên cả hai cực của địa cầu và đỉnh núi Everest cao nhất thế giới. Hillary là người Tân Tây Lan duy nhất được in hình trên tiền giấy của nước nầy khi còn sống và nhiều con đường, trường học được đặt theo tên của ông. Ngày nay phải gọi ông là Sir Hillary, vì đã được nữ hoàng phong tước hiệp sĩ.

11 tháng 1 năm 2008, ông qua đời sau một cơn nhồi máu cơ tim, thọ 88 tuổi. Ngày tang lễ, dân chúng Tân Tây Lan quấn cờ trên người, đứng hai bên đường chào kính ông lần cuối với đôi mắt đẫm lệ. Cuộc đời của ông là những chuỗi ngày chinh phục. Một cuộc đời hùng tráng, kỳ diệu, khó ai bì được.

29/5/2024






Sunday, 26 May 2024

NGƯỜI BỐC HƠI’ – JOUHATSU-SHA

 

NGƯỜI BỐC HƠI’ – JOUHATSU-SHA

Đi du lịch Nhật Bản, nhiều người thích đến thành phố cảng Osaka, nơi có những danh lam thắng cảnh và di tích lịch sử rất đặc thù của xứ Phù Tang. Thế nhưng ít ai biết rằng cũng tại nơi đô hội nầy có một khu ổ chuột tên là Kamagasaki. Tờ báo South China Morning Post số ra ngày 19 tháng 3 năm 2023 đã trình làng bộ phim tài liệu cho dân chúng một cái nhìn cận cảnh cuộc sống ở nơi nghèo đói ngay sát những biệt thự giàu có.

Người ta đặt tên cho những cư dân khu ổ chuột Kamagasaki nầy là ‘jouhatsu-sha’ nghĩa là ‘người bốc hơi’. Ho là công dân Nhật Bản ở khắp nơi, giũ bỏ quá khứ, để lại sau lưng những thất bại đau thương, chọn nơi nầy làm chốn dung thân với ước mong tìm lại những ngày tháng mới trong cuộc đời mà không ai biết đến.

Năm 2021 có khoảng 80.000 người bị báo cáo là mất tích ở Nhật Bản. Phần lớn họ vẫn còn sống, nhưng chọn cách ‘bốc hơi’ quá khứ vì nợ nần, vì không làm tròn trách nhiệm trong cuộc đời ngày trước. Họ tìm một chỗ trốn với ý nguyện lập lại đời mới. Họ cắt đứt mọi liên lạc với gia đình, bạn hữu bằng cách thay tên đổi họ để không ai còn tìm ra nữa. Nơi đây trở thành một khu ‘chợ nhân công’ cung cấp cho các hãng xưởng những người thợ bằng lòng mức lương thật thấp. Đã từng có đến 25.000 người rơi vào khu ổ chuột nầy. Đáng buồn là phần lớn trong họ là những người già, sống lê lất chỉ mong được thuê làm công việc lặt vặt kiếm sống qua ngày.

Nhiều người sống ở Kamagasaki thay đổi tên họ. Tiểu sử dường như đã bị chấm dứt ngay giây phút vào làm cư dân ở mảnh đất nầy. Rất may xã hội Nhật Bản tôn trọng quyền riêng tư, tạo điều kiện để họ sống ẩn dật, che dấu bản thân mình. Họ cũng có thể mở trương mục trong ngân hàng, có thể rút tiền từ máy ATM mà không sợ ai phát hiện. Cảnh sát chỉ can thiệp khi có ai phạm tội hoặc gây tai nạn. Gia đình muốn tìm lại người thân phải tự thuê thám tử tư, chính quyền không bao giờ tiết lộ.

Một ‘jouhatsu-sha’ (người bốc hơi) tên Kodama, 64 tuổi, kể với phóng viên rằng ông bỏ nhà ra đi khi mới 27 tuổi, chỉ có chút đỉnh tiền, đủ mua vé tàu lửa đến Osaka tìm việc làm mới. Chẳng may cuộc đời không như mong ước, đã 35 năm rồi không gặp lại người thân. Ông ngậm ngùi tâm sự: ‘Nếu tôi quay lại sẽ rất khó xử với mọi người. Vì vậy tôi ra đi sống một mình. Tôi rất mệt mỏi với cuộc đời nhưng không đủ dũng cảm để tự sát’.

Ở bất cứ nơi nào trên thế giới cũng đều có những người bất hạnh, kém may mắn. Cầu mong cho tất cả chúng ta đều tìm được bến đỗ an bình.





 

 

Thursday, 9 May 2024

TIN NHẮN CỦA MỘT NGƯỜI MẸ

 

TIN NHẮN CỦA MỘT NGƯỜI MẸ

Chuyện kể rằng sau trận động đất kinh hoàng vào tháng 3 năm 2014 tại Nhật Bản, cướp đi sinh mạng hàng ngàn người. Nhiều đội cứu nạn phải đi lục lọi dưới đống đổ nát để mong tìm những nạn nhân còn sống sót. Vài người trong số họ nhìn thấy thi thể của một phụ nữ qua vết nứt của ngôi nhà bị sập. Tư thề của cô có chút khác thường, như đang quỳ gối cầu nguyện, hai tay đỡ lấy một thứ gì đó. Cả mái nhà đè hẳn lên tấm thân nhỏ bé của cô.

Mọi người cho rằng cô đã chết nên cứ để đó, vì họ phải lo tìm người sống. Nhưng vị đội trưởng bỗng có linh cảm điều gì bí ẩn. Ông ra lịnh cả đội cố tìm cách lại gần thi thể của người phụ nữ xấu số. Và điều kỳ diệu đã xảy ra. Khi ông rờ vào bên dưới đôi cánh tay, đã tìm thấy một đứa bé. Một đứa bé còn sống, khoảng ba tháng tuổi, được bọc trong một chiếc khăn hoa.

Rõ ràng, khi ngôi nhà bị sập, người mẹ đã lấy cả thân mình chống đỡ, bảo vệ con trai. Trong tấm chăn người ta còn tìm được chiếc điện thoại di động, trên màn hình có viết một tin nhắn, như muốn gửi cho ai. Đọc tin nhắn đó, tất cả đội cứu nạn đều bật khóc.

Tin nhắn viết rằng: ‘Nếu con có thể sống sót, hãy nhớ rằng, mẹ rất yêu con’.




Wednesday, 8 May 2024

TẠO NÊN MỘT NGƯỜI MẸ

 

TẠO NÊN MỘT NGƯỜI MẸ

Huyền thoại kể rằng thuở xa xưa, khi Đấng Tạo Hóa đã thực hiện gần xong mọi kế hoạch vũ trụ, Ngài có ý dựng nên người mẹ đầu tiên trên thế gian. Miệt mài suốt 6 ngày đêm, lao công tổn sức mà Ngài vẫn chưa hoàn tất công trình. Thấy như thế một thiên thần hỏi: Tại sao Ngài lại mất quá nhiều thời giờ cho tạo vật nầy vậy?

Tạo Hóa đáp: Đây là một công trình cực kỳ phức tạp, cần có đến hơn 200 bộ phận tinh xảo, vừa có tính chất bền bỉ mà vẫn chẳng phải là gỗ đá vô tri. Tạo vật nầy có thể sống bằng nước lã và cơm thừa canh cặn của gia đình, nhưng suốt đời luôn đủ sức ôm ấp trong vòng tay một đàn con thơ dại. Đặc biệt là nụ hôn của nó có thể chữa lành mọi vết thương, từ một mảng trầy nhỏ trên đầu gối cho tới một trái tim tan vỡ.

Ta còn có ý định ban cho nó cả thảy 6 đôi tay và 3 đôi mắt.

-Sáu đôi tay và ba đôi mắt? Thiên thần kinh ngạc.

-Vâng như thế cũng chưa chắc là đủ. Bởi vì đây chính là tạo vật tâm đắc nhất trong công cuộc sáng tạo, nên Ta dành tất cả mọi ưu ái cho nó. Nó phải có 6 đôi tay mới làm xong hết công việc hằng ngày. Nó cũng cần 3 đôi mắt. Một đôi có thể nhìn xuyên qua những cánh cửa đóng kín để biết được từng sinh hoạt của lũ trẻ. Đôi thứ hai ở sau gáy để nhìn thấy mọi cảnh ngộ của gia đình, quán xuyến mọi chi tiết đa đoan. Và đôi thứ ba nằm trên trán để nhìn suốt tim gan của những đứa con lầm lạc. Với cái nhìn đó, các con hiểu rằng mẹ chúng luôn luôn cảm thông, thương yêu và sẵn lòng tha thứ mọi lỗi lầm, sai phạm, dù nhiều khi chẳng nói thành lời.

Vị thiên thần chạm nhẹ vào tạo vật “mẹ” và ngạc nhiên hỏi: Tại sao nó lại mềm mại như thế? –Mềm mại à? Ngươi chưa biết đó thôi. Tạo vật nầy trông yếu đuối, nhưng rất cứng rắn. Nhờ đó mà nó có thể chịu đựng được mọi gánh nặng, những gian khổ, phiền muộn trong suốt cuộc đời.

Vị thiên thần lại sờ lên khuôn mặt của người mẹ và thốt lên: Hình như Ngài để rớt cái gì đó trên đôi má người nầy. Tạo Hóa thở dài thổ lộ: Đó chính là những giọt nước mắt. Nước mắt để bộc lộ niềm vui, nỗi buồn, cơn thất vọng, niềm cay đắng, lúc cô đơn và dĩ nhiên cả những tự hào về con cái mà người mẹ nào cũng sẽ trải qua. Những giọt nước mắt ấy thật là kỳ diệu biết bao!

Sau công trình đó, Ngài rất lấy làm hài lòng, không còn muốn tạo nên một thứ nào tốt hơn nữa!





 

Monday, 6 May 2024

NGÀY VUA DUY TÂN BỊ BẮT GIỮ

 

NGÀY VUA DUY TÂN BỊ BẮT GIỮ

Bài nầy được viết ngày 6 tháng 5 năm 2024 để kỷ niệm 108 năm thực dân Pháp bắt giữ vua Duy Tân và sau đó đưa đi an trí tại đảo Réunion.

Vua Duy Tân có tên khai sinh là Nguyễn Phúc Vĩnh San, sinh ngày 19 tháng 9 năm 1900, tử nạn ngày 26 tháng 12 năm 1945, là vị hoàng đế thứ 11 của triều Nguyễn từ năm 1907 đến năm 1916, kế vị vua cha Thành Thái. Ông là con thứ 8 của vua Thành Thái và bà hoàng phi Nguyễn Thị Định.

Khi vua cha bị Pháp lưu đày, lẽ ra triều đình phải chọn người con trưởng lên kế vị, nhưng chính quyền thực dân sợ một vị vua trưởng thành sẽ khó sai khiến, nên họ ra lịnh phải chọn một hoàng đế nhỏ tuổi. Khâm sứ Ernest Lévecque điểm danh các hoàng tử nối ngôi, thiếu mất Vĩnh San, liền cho người đi tìm. Họ thấy cậu bé trốn dưới gầm giường, mặt mày lem luốc, hỏi ra mới biết cậu đang tìm con dế mới bị thất lạc đâu đó. Tắm rửa xong, họ đưa hoàng tử vào ra mắt người Pháp, vừa gặp mặt người Pháp đồng ý ngay, vì họ thấy Vĩnh San có vẻ nhút nhát, đần độn. Khi lên ngôi Vĩnh San đặt niên hiệu là Duy Tân, có ý muốn hướng tới sự nghiệp chưa thành của vua cha Thành Thái.

Ngày 5 tháng 9 năm 1907 vua Duy Tân lên ngôi, người Pháp không ngờ rằng cậu bé trông có vẻ thiếu thông minh đó đã thay đổi chỉ sau một ngày đăng cơ. Một nhà báo người Pháp thuật lại ‘Chỉ một ngày lên ngai vàng đã thay đổi hoàn toàn bộ mặt của cậu bé lên tám’. Những gì quan quân thực dân làm trái ý, xâm phạm đến hoàng tộc hay đất nước, vị vua trẻ tuổi phản kháng rất kịch liệt. Năm 13 tuổi, vua duyệt lại những hiệp ước bất cân xứng mà nước An-nam đã ký với Pháp, liền ra lịnh quần thần cử người sang Paris để yêu cầu chỉnh sửa, cả triều đình không ai dám nhận chuyến đi đó.  Năm 15 tuổi vua triệu tập cả 6 vị đại thần, bắt các ông ký vào một biên bản để chính vua đích thân đi khiếu nại, ai nấy đều sợ hãi, phải nhờ đến bà Thái hậu can ngăn. Từ đó vua ác cảm với người Pháp và không còn tin tưởng vào các quan chức trong triều đình nữa.

Biết được tấm lòng của vua Duy Tân đối với đất nước, tổ chức Việt Nam Quang Phục Hội do cụ Phan Bội Châu thành lập đã cử hai ông Trần Cao Vân và Thái Phiên tìm cách móc nối. Hai nhà lãnh đạo nầy bỏ tiền vận động người tài xế riêng của vua xin thôi việc và thay vào đó người tài xế của Hội tên là Phạm Hữu Khánh. Tháng 4 năm 1916, nhân dịp đưa Duy Tân đi nghỉ mát ở Cửa Tùng, Phạm Hữu Khánh trao cho vua một bức thư của hai nhà lãnh đạo, vua đọc thư và ngỏ ý muốn gặp hai người. Sau nhiều ngày cùng giả dạng đi câu cá với nhau, quyết định khởi nghĩa đánh đuổi thực dân vào ngày 3 tháng 5 năm 1916. Thế nhưng đại cuộc bất thành vì bí mật bại lộ, Trần Cao Vân và Thái Phiên định đưa vua đi trốn. Sáng ngày 6 tháng 5 năm 1916, tất cả bị bắt.

Khâm sứ tại Huế và Toàn quyền thuyết phục Duy Tân trở lại ngôi vua, nhưng ông đã khước từ: ‘Các ngài muốn bắt buộc tôi phải làm vua nước Nam, thì hãy xem tôi như một hoàng đế trưởng thành, có quyền tự do hành động, có quyền trao đổi tin tức và ý kiến với chính phủ Pháp’. Bản án quy hết tội cho bốn nhà lãnh đạo Việt Nam Quang Phục Hội, tất cả bốn người bị xử chém. Riêng Duy Tân được giảm nhẹ vì cho là nhỏ tuổi, bị xúi giục, chỉ bị cho đi lưu đày ở đảo La Réunion cùng với vua cha Thành Thái.

Câu nói để đời của vua Duy Tân: ‘Tay dơ lấy nước mà rửa, Nước dơ thì phải lấy máu mà rửa, hiểu không?’





 

Sunday, 5 May 2024

COCA-COLA

 COCA-COLA

Năm mươi năm trước có người đã nói với tôi rằng rồi đây khắp thế giới có hai chữ ai ai cũng nhớ, đó là 'A-men' và 'Coca-Cola'. Bây giờ xét lại có lẽ lời nói nầy quả không ngoa.

Năm nay, 2024, đánh dấu 130 năm sản phẩm Coca-Cola được đóng chai và bán ra thị trường lần đầu tiên ở Mississippi, Hoa Kỳ. Thứ nước uống nầy được điều chế bởi dược sĩ John Pemberton nhưng sau đó một nhà tài phiệt tên Asa Candler mua lại công thức. Với tài tiếp thị thông minh, Candler đã đưa sản phẩm nầy trở thành rất nổi tiếng như ngày nay. Công ty có mặt trên 200 quốc gia, mỗi ngày bán được 1 tỉ chai nước, tính ra mỗi giây có hơn 10.000 người tiêu thụ sản phẩm của Coca-Cola.

Tên Coca-Cola bắt nguồn từ hai thành phần chính: hạt cola và lá cây coca, nhưng cho đến nay công thức của nó vẫn là một bí mật, chỉ một vài công nhân biết mà dù cạy miệng họ vẫn không nói ra. Ban đầu dược sĩ Pamberton định chế ra một loại thuốc bình dân chống đau đầu và mệt mỏi. Sau nhiều lần thử nghiệm, ông thành công với một loại siro có màu đen như cà-phê. Pha siro nầy với nước lạnh khi uống vào sẽ là phương thức giảm nhức đầu, tăng sản khoái.

Rất hài lòng với thứ nước uống kỳ diệu nầy, Pemberton vui sướng đi khắp nơi chào hàng, nhưng rồi ông lấy làm thất vọng vì không ai chịu uống thử thứ nước màu nâu đen mới mẻ nầy, họ cho đó là thuốc chứ không phải nước giải khát. Bất ngờ một nhân viên quán rượu nhầm lẫn pha Coca-Cola với nước soda thay vì nước lạnh, nó trở thành rất ngon miệng, trở nên một thứ nước giải khát nhiều người ưa chuộng. Năm mươi năm sau sản phẩm nầy trở thành một biểu tượng của nước Mỹ, đến nỗi năm 1985 công ty có thay đổi công thức pha chế một chút, dân chúng đã biểu tình phản đối, ban giám đốc phải cho dùng lại công thức nguyên thủy.

Thế giới ngày nay có 33 nhãn hiệu nước giải khát nổi tiếng, trong đó 15 nhãn hiệu của Coca-Cola. Nó có mặt trên tất cả các châu lục với 73.000 công nhân. Hằng năm số tiền lương được trả ra là 4 tỉ dollars.