Thursday, 27 October 2011

NHỮNG CHIẾC ĐÈN DẦU


Tại Việt Nam ngày nay, những chiếc đèn dầu mà có khi chúng ta gọi là đèn Hoa Kỳ, hầu như không còn nữa, vì khắp nơi người ta đều dùng điện thắp sáng. Có người vẫn còn tìm mua những chiếc đèn  có chạm khắc hoa văn hay hình dạng đặc biệt, chỉ là để thỏa mãn thú sưu tập đồ cổ mà thôi.
Những chiếc đèn dầu đã du nhập vào nước ta vào cuối thế kỷ 19 do hãng dầu Shell (ta gọi là hãng Con Sò) giới thiệu. Khi gia nhập thương trường Việt Nam, hãng Shell chỉ muốn bán dầu lửa cho người Đông Nam Á, nhưng bấy giờ dân chúng tại đây chỉ biết đến dầu lạc, đèn cầy, còn dầu lửa vẫn là sản phẩm quá xa lạ. Các nhà tiếp thị của Shell bèn áp dụng diệu kế . Họ sản xuất những chiếc đèn dầu và quảng cáo ầm ĩ sẽ “biếu không” cho khách. Nghe nói hãng Shell cho free đèn, ai cũng muốn đến rinh về một cái. Và rồi, nếu muốn đèn thắp sáng, việc cần làm là phải mua dầu. Thế là dù muốn dù không, tự dưng ai cũng phải chứa dầu lửa trong nhà! Từ đó, suốt chiều dài của thế kỷ, những chiếc đèn Hoa Kỳ đã thay thế những dĩa dầu lạc, những cây đèn cầy truyền thống để mang ánh sáng đến mọi gia đình. Về sau, chúng ta có câu tục ngữ “Sống đèn dầu, chết kèn trống”.
Trong thời đại Thánh Kinh, người Do Thái thường làm đèn bằng đất nung, bằng đồng, và nếu giàu có thì sắm đèn bằng bạc.Dầu thắp thường chế từ thực vật hoặc mỡ hay sáp. Ngọn đèn sáng là hình bóng về sự thịnh vượng lâu dài (II Sa 21:17, I Vua 11:36, Thi 132:17). Vào viện bảo tàng Jerusalem, du khách sẽ thấy chưng 7 cái đèn lạ. Lúc đầu người ta không hiểu công dụng của chúng. Vì ở dưới có một vòng cung, phía trước có một khoen nhỏ.Treo lên tường không được mà đăt lên bàn cũng bất tiện. Nhưng đọcThi Thiên119:105 mới khám phá ra rằng thời xưa, người ta mang đèn đó vào chân khi đi lại ban đêm. Vòng cung bám vào chân, chiếc khoen tròng vào ngón cái, mỗi bước đi đều có ánh sáng chiếu soi.
“Lời Chúa là ngọn đèn cho chơn tôi, là ánh sáng cho đường lối tôi!”
Thi Thiên 119:105

Tuesday, 18 October 2011

THÀNH GIÊ-RI-CÔ


THÀNH GIÊ-RI-CÔ

Ngày nay, trở lại Giê-ri-cô, du khách sẽ thấy đây chỉ là một thị trấn nhỏ, hiền hòa với dân số 20,000 người, nằm cách Giê-ru-sa-lem 25 cây số. Tên gọi Giê-ri-cô mang ý nghĩa “mùi thơm” có lẽ phát xuất từ những thứ trái cây ngon ngọt nổi tiếng được trồng tại mảnh đất màu mỡ nằm thấp hơn mặt biển 260 mét nầy. Ngoài ý nghĩa trên, Giê-ri-cô cũng còn được mệnh danh là “thành mặt trăng”, vì dân Ca-na-an cư ngụ trước đó tôn thờ mặt trăng làm thần tượng. Đọc Thánh Kinh, chúng ta còn bắt gặp một tên khác nữa: “thành cây chà-là”(Phục 34:3, II Sử 28:15).

Giê-ri-cô có một lịch sử rất lâu dài. Tại đây đã có người cư ngụ cách nay 11 ngàn năm. Là thành phố cổ xưa nhất của thế giới. Các nhà khảo cổ đã tìm thấy những vật dụng, nhà của xây dựng với niên đại 9000 năm trước Công nguyên. Người ta cũng tìm thấy một vách tường với tháp cao 3.6 mét do công sức của hàng trăm người, có lẽ để chận nước sông Giô-đanh thường tràn ngập vào chỗ dân chúng cư ngụ.

Cho đến khi dân I-sơ-ra-ên về đến đất hứa, Giê-ri-cô đã là một thành phố hùng vĩ, đông dân, thịnh vượng, có lũy thành kiên cố bao bọc, Về chiến lược, thành Giê-ri-cô nắm giữ một cứ điểm quan trọng để bảo vệ toàn lãnh thổ Ca-na-an. Đó là vị trí yết hầu mà không qua khỏi cửa ải nầy, không thể chinh phục thủ đô Giê-ru-sa-lem và toàn xứ Bê-tên. Có thể nói Giê-ri-cô là thành lũy của tất cả thành lũy cho sự hưng vong của xứ Ca-na-an thời cổ.

Nhưng qua cuộc khảo sát bằng carbon, người ta khẳng định, vào năm 1550 trước Công nguyên, đại thành đã bị một cơn tàn phá dữ dội, hoàn toàn sụp đổ. Đó hẳn là kết quả của “trận chiến bảy ngày” do vị nguyên soái từ trời” chỉ huy, được thánh sử ghi chép trong Giô-suê đoạn 6. Tất cả những hào quang, hoành tráng của một thành phố lịch sử dường như bị chôn vùi dưới lớp bụi thời gian. Ngày nay, tên gọi nơi nầy là Ariha. Nhưng người Do thái vẫn nhắc đến địa danh huyền thoại Giê-ri-cô như một chứng tích kiêu hùng của những ngày cha ông chinh phục miền đất hứa.

Saturday, 15 October 2011

CHÚA NHẬT


Trong thời Cựu ước Đức Chúa Trời phán dạy dân I-sơ-ra-ên phải giữ ngày thứ Bảy (tức ngày Sa-bát) làm ngày nghỉ. Nhưng đến thời Tân Ước, Hội Thánh lại chọn ngày thứ Nhứt (tức Chúa Nhật) làm ngày yên nghỉ và thờ phượng. Tại sao vậy?
            Từ ngàn xưa Chúa thiết lập ngày thứ Bảy làm ngày yên nghỉ (Xuất Ê-díp-tô-ký 20:8-11), mà người Do Thái gọi là ngày Sa-bát, nhằm vào nhu cầu tâm linh và thể xác của dân sự. Đây là ngày họ dành riêng để nuôi dưỡng đời sống thuộc linh và phục hồi sức khỏe cho thể xác. Tất cả đều yên nghỉ trong ngày đó với thái độ vâng phục và sắm sửa linh hồn cho sự giao thông cùng Chúa.
            Sau khi Chúa Giê-xu về trời, và sau ngày Lễ Ngũ Tuần, với lòng hăng say của sự đầy dẫy Thánh Linh, Hội Thánh đầu tiên nhóm họp và dự tiệc thánh mỗi ngày trong tuần. Nhưng rồi theo thời gian, việc thờ phượng hằng ngày thấy không còn thích hợp nữa, Hội Thánh lập ra quy tắc nhóm họp thờ phượng mỗi tuần một lần. và họ đã chọn ngày thứ Nhứt. Sỡ dĩ chọn ngày đó là để kỷ niệm sự sống lại của Chúa Giê-xu! Vì Ngài sống lại ngày thứ Nhứt trong tuần, hiện đến cùng họ. Rồi bảy ngày sau, cũng là ngày thứ Nhứt, Ngài lại hiện ra một lần nữa đang khi họ nhóm lại. Sự kiện Đức Thánh Linh giáng lâm cũng xảy ra vào ngày thứ Nhứt. Từ đó trở đi, các sứ đồ chọn ngày đó làm ngày nhóm hiệp bẻ bánh (Công 20:7, I Cô-rinh-tô 16:2). Sử liệu Hội Thánh từ đó đều ghi lại quy tắc dùng ngày thứ Nhứt làm ngày của Chúa. Các nhà giải kinh cũng đồng ý rằng khi sừ đồ Giăng viết “ngày của Chúa” trong sách Khải Huyền 1:10 là ám chỉ ngày Hội Thánh nhóm họp trong thời các sứ đồ, nghĩa là ngày thứ Nhứt trong tuần lễ, mà ngày nay chúng ta gọi là Chúa Nhật!

Thursday, 13 October 2011

CÓ MỘT ÔNG GIÓP TRONG LỊCH SỬ KHÔNG?


Đọc sách Gióp, có khi chúng ta tự hỏi: đây có phải một câu chuyện thật của một con người lịch sử, hay chỉ là nhân vật hư cấu trong một tác phẩm văn chương? Giữa dòng thời gian nhân loại, có một người nào mang tên Gióp? Và nếu có, ông xuất hiện ở giai đoạn nào?
                Tác phẩm thi văn nầy tỏ rõ những nghịch lý của cuộc đời. Làm sao một con người công bình chính trực như Gióp lại mang nhiều nỗi tai ương? Tại sao Đức Chúa Trời để cho một tôi tớ trung thành với Ngài rơi vào tận cùng đau khổ? Và mặc dù sau đó ông đã được phục hồi gia đình và vật chất, nhưng còn vết thương lòng của những ngày hoạn nạn, của thế thái nhân tình,  nào có chữa lành được chăng?
                Tìm trong Kinh Thánh, ngoài sách Gióp, ta thấy có hai lần đề cập đến tên của ông. Một lần trong Cựu ước, Ê-xê-chi-ên 14:14 và một lần trong Tân ước, Gia-cơ 5:11. Ngoài ra, Phao-lô có một lần trích dẫn lời của Gióp trong I Cô-rinh-tô 3:19 (so sánh với Gióp 5:13). Cần nhớ rằng khi Kinh Thánh nhắc lại danh tánh của một người như tấm gương noi theo, thì chúng ta có thể tin chắc rằng người đó đã từng hiện diện trong dòng lịch sử.
                Gióp sống đến 200 tuổi, lâu như các tổ phụ xưa. Ông là người ngoại bang ở xứ Ut-xơ (có phải là U-xơ trong Sáng 10:23?). Ông cũng làm thấy tế lễ cho họ tộc mình, như phong tục rất xưa ở những vùng dân Arabic.  Trong sách Gióp, dường như ông có đề cập đến cơn đại hồng thủy (Gióp 22:15-17). Qua lối hành văn, qua dòng tư tưởng và những phong tục cổ xưa bày tỏ trong sách, người ta suy đoán rằng câu chuyện của Gióp đã xảy ra vào  khoảng thời kỳ 2000-1800 trước Công nguyên (cách nay hơn 4000 năm), nghĩa là trước khi dân I-sơ-ra-ên rời xứ Ai-cập.
                Các nhà giải kinh cũng suy đoán rằng, đang khi trú ngụ tại xứ A-ra-bi, gần Hô-rếp, Môi-se đã tìm được án văn chương nầy. Môi-se nhận thấy những thử thách, tính nhịn nhục và từng trải của Gióp có thể dạy dỗ và khích lệ dân sự trong cơn khốn khó mà họ đang chịu, nên ông thêm lời tiểu dẫn và kết luận rồi cho vào Kinh Thánh. Dù đó chỉ là một suy đoán còn cần nghiên cứu thêm, nhưng một điều chắc chắn: Gióp là một con người có trong lịch sử, từng trải những khốn khổ đã được viết ra, chứ không phải chỉ là một nhân vật huyền thoại, hư cấu của văn chương!