Monday, 28 November 2011

MA-RI


Tuần rồi chúng ta đã lượt qua vài nét chính trong cuộc đời của người trinh nữ được chọn lựa. Một người đã trổi lên bài ca rất tuyệt mà trong đó nàng đã nói “Từ rày về sau, muôn đời sẽ khen tôi là kẻ có phước”. Nhưng bây giờ, chẳng những người ta khen nàng, mà còn thờ phượng nàng nữa! Vậy thì từ đâu và từ bao giờ xảy ra việc tôn thờ thánh nữ Ma-ri? Đây là một đề tài lớn, tác giả chỉ xin tóm gọn một vài ý chính. Nếu Quí Vị có ý kiến hay những điều chỉ giáo, xin vui lòng gửi về Email: renewthestrength@gmail.com. Chân thành cảm tạ.
                Như đã nói, lần cuối cùng Kinh Thánh nhắc đến Ma-ri là ở Công Vụ 1:14. Sau đó có lẽ bà sống với sứ đồ Giăng cho đến tuổi già và qua đời trong sự chăm sóc của ông. Như vậy Kinh Thánh không hề nói đến những việc như Ma-ri vô nhiễm nguyên tội, đồng trinh suốt đời, hồn xác về trời hay khuyến khích tín đồ tôn thờ bà như “mẹ của Đức Chúa Trời”. (Tham khảo Kinh Thánh: Giăng 3:6, Rô-ma 5:12, Lu-ca 1:47,48, Lu-ca 2:7, Mác 3:31).
                Ngoài Kinh Thánh, những văn sách của các giáo phụ trong 5 thế kỷ đầu tiên cũng không đề cập đến tục thờ lạy Ma-ri. Và như thế nguồn gốc của việc tôn thờ nầy đều phát sinh từ truyền thuyết do con người đặt ra mà thôi. Câu chuyện hoang đường về việc Ma-ri được cất lên trời xuất hiện lần đầu tiên trong sách Sử-ký của Eusebe. Ông viết “Trong năm 48 sau Công nguyên, Ma-ri, nữ đồng trinh, được cất lên trời…”.Về sau ai cũng biết sách Sử-ký đó là giả mạo. Vào thế kỷ thứ 6 và thứ 7 lại dấy lên truyền thuyết rằng khi Ma-ri qua đời, chính Đấng Christ đã hiện đến và đem thân xác bà về trời với Ngài. Điều nầy cho đến nay tất cả những giáo hội Cải chánh đều chối bỏ.
                Tóm lại, suốt 500 năm đầu tiên của Hội Thánh, không có việc thờ phượng Ma-ri. Cho đến thế kỷ thứ 6, giáo lý nầy mới lan tràn trong Hội Thánh, phát xuất từ những lời truyền khẩu không được đặt nền tảng vào Kinh Thánh là Lời Đức Chúa Trời!
“Ngài đã đoái đến sự hèn hạ của tôi tớ Ngài” (Lu-ca 1:48)

Thursday, 24 November 2011

MA-RI


Năm trăm năm trước khi bài Thánh Ca Nô-ên đầu tiên trổi lên trên vòm trời Bê-lem trong đêm huyền diệu, nhà đại tiên tri Ê-sai của Do thái đã loan báo: “Nầy, một gái đồng trinh sẽ chịu thai, sanh ra một trai và đặt tên là Em-ma-nu-ên” (7:14). Nàng trinh nữ được chọn lựa trong lời tiên báo đó tên là Ma-ri.
                Ma-ri nghĩa là “Người được Thiên Chúa tôn lên”. Người ta không rõ Ma-ri sinh ra trong một gia đình thế nào, cha mẹ nàng là ai, làm nghề gì. Chỉ biết rằng nàng thuộc chi phái Giu-đa, dòng dõi vua Đa-vít. Với vài nét phát họa trong Thánh Kinh, ta có thể hình dung tánh hạnh của Ma-ri. Nàng là người chăm chỉ học Kinh Thánh, lấy những bậc nữ thánh làm mẫu mực cho đời sống (Lu-ca 1:46). Đức tin và lòng thuận phục hiện ra rất rõ nét trong tâm hồn (Lu 1:38). Người ta tôn quí nàng vì tấm lòng mềm mại, trung tín, khiêm nhường, nhẫn nại, đáng yêu, thật thà, nhiều nghị lực, hết lòng với gia đình, con cái.
                Sau câu chuyện mầu nhiệm của đêm Giáng Sinh, các tác giả Tân Ước rất ít nhắc đến Ma-ri. Người ta chỉ đếm được 5 lần xuất hiện: Lần thứ nhứt khi mục kích cậu con trai phi phàm ứng xử với những thầy tế lễ trong đền thờ. Thứ hai tại đám cưới Ca-na. Thứ ba muốn trò chuyện cùng Ngài khi thấy con trai mình không nghỉ ngơi, ngày đêm miệt mài trong chức vụ. Nhưng lần xuất hiện thứ tư là đau đớn nhất, từng bước lần theo đoạn đường khổ nạn, đứng dưới chân thập tự nhìn con mình chịu chết với tâm hồn tan vỡ, sầu bi.
                Lần cuối cùng Kinh Thánh chép về Ma-ri là Công vụ 1:14 khi bà và anh em Ngài cùng với các môn đồ khác “bền lòng đồng một ý mà cầu nguyện”. Bây giờ thì họ mới thật sự biết Ngài, tin Ngài. Nỗi đau thập tự đã được thay bằng niềm hân hoan của ngày khải hoàn sống lại. Có lẽ từ đó cho đến hết cuộc đời, bà khép mình dưới sự cưu mang của sứ đồ Giăng theo như di huấn của Chúa. Truyền khẩu ghi rằng sứ đồ Giăng không chịu rời khỏi xứ Do thái cho đến khi bà trút hơi thở cuối cùng trong cánh tay trìu mến của ông.
“Từ rày về sau, muôn đời sẽ khen tôi là kẻ có phước “ (Lu-ca 1:48)

Monday, 14 November 2011

HÔ-SA-NA và HA-LÊ-LU-GIA


Có lẽ ngày nay tín hữu quen dùng từ ngữ ‘Ha-lê-lu-gia’ để ngợi khen Chúa hơn là chữ ‘Hô-sa-na’. Hai từ ngữ tiếng Hê-bơ-rơ nầy có ý nghĩa gì ?
            Hô-sa-na=Xin giải cứu hay Xin cầu cứu (Hosanna)
            Ha-lê-lu-gia=Hãy ngợi khen Đức Giê-hô-va (Alleluia)
            Mỗi khi người Do Thái nhóm họp, họ có hát thánh ca ngợi khen Chúa. Lúc người hướng dẫn kêu lên ‘Alleluia !’ thì có nghĩa là ‘Chúng ta hãy ngợi khen Đức Giê-hô-va !’ Những thi thiên từ 113 đến 118 được gọi là bài Hallel vì được kể là loại thơ ca ngợi Chúa. Những Thi Thiên nầy thường được hát trong những lễ hội như Lễ Vượt Qua, Lễ Ngũ Tuần, Lễ Lều Tạm v.v…Khi Chúa Giê-xu cùng môn đồ hát thơ thánh (Ma-thi-ơ 26 :30) là những Thi Thiên 115-118 thường được hát sau bữa ăn tối . Hội Thánh trong thời Tân Ước cũng dùng tiếng Ha-lê-lu-gia trong ý nghĩa kêu gọi mọi người nức lòng xưng tụng Chúa tòan năng (Khải 19 :1,6).
            Tân Ước ghi lại công chúng hoan nghinh Chúa Giê-xu vào thành, họ la lên ‘Hô-sa-na’, tức là xin Ngài chúc phước và giải cứu họ (Mathio 21, Mác 11, Giăng 12). Đây là tập tục có từ xưa trong dân I-sơ-ra-ên. Vào những dịp đại lễ, giữa những khi nghe thầy tế lễ đọc Thi Thiên 113 đến 118, trong lòng hớn hở, vui mừng họ đồng thanh kêu lên ‘Hosanna !’ như một lời ngợi khen, ước nguyện. Ngày nay Hội Thánh dường như quên mất ý nghĩa chính của từ ngữ nầy và cũng ít khi xử dụng. Nhưng mỗi khi đọc lại Lu-ca 13 :35 chính là lúc chúng ta kêu lên môt tiếng lớn‘Hô-sa-na’ : ‘Phước cho Đấng nhơn danh Chúa mà đến !’

Friday, 11 November 2011

ĐIỆN THOẠI DI-ĐỘNG


Trong hai ngày cuối tuần giữa tháng 10 công ty Apple đã bán ra hai triệu điện thoại iPhone 4S cho những người ái mộ ở Mỹ, Canada, Nhật Bản và Úc-đại-lợi! Ở thời đại chúng ta, mỗi người, đàn ông hay phụ nữ, già hay trẻ,đều cặp tay một chiếc điện thoại di động!                      .                                                                   .                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                
    Theo cuộc khảo cứu gần đây, “người” gần gũi nhất của đa số chúng ta là  “chiếc mobile phone”! Một trong tám người cho biết bạn đời của họ dành nhiều thời gian xử dụng điện thoại di động hơn là trò chuyện với nhau. Cánh đàn ông lại kề cận với “người bạn” nầy nhiều hơn phụ nữ! Đàn ông giữ điện thoại bên mình 17 giờ mỗi ngày. Một trong năm người (18 phần trăm) đi ngủ với chiếc phone trong tầm tay với. Trong khi đó thì phụ nữ ít hơn một chút, chỉ 15 giờ mỗi ngày, còn lúc đi ngủ thì có 16 phần trăm “bên em đang có ta”.
    Cuộc thăm dò bên Anh cho biết mỗi ngày trung bình người ta bỏ ra 48 phút cho điện thoại di động. Và cứ một trong ba người có thói quen nhìn vào chiếc màng ảnh nhỏ có ánh đèn nhấp nháy nầy dù là đang đi ăn hay xem phim với người tình hay bạn đời của họ. Giữa những cuộc họp mặt công cộng mà có tiếng reo trong túi áo, thì 90 phần trăm liền chạm tay đến chiếc hộp bé nhỏ nầy ngay.
    Dù là xinh đẹp và đa dụng, điện thoại cũng gây cho ta bao phiền phức, nhất là chuyện trò lúc lái xe. Năm vừa rồi, người dân Úc đã vui vẻ nộp 42 triệu tiền phạt vì mobile phone. Ở Victoria, cứ mỗi tờ giấy cảnh sát tận tay trao cho đều có giá $244 và trừ ba điểm trong bằng lái! Bây giờ ngay cả lúc bạn dừng xe ở ngã tư mà tiện tay cầm lên để tâm sự một chút, thì những bạn dân cũng thân ái tặng ngay cho bạn một tấm vé phạt! Riêng người có bằng L hay bằng P, dù là dùng hand-held hay hand-free đều không làm vui lòng mấy bác police.
    Thật ra ý niệm quan trọng nhất của điện thoại là “truyền thông”. Dù Bạn xử dụng loại mắc tiền hay rẻ tiền thì cũng chỉ là để liên lạc lẫn nhau, truyền nhau tin tức và tạo mối dây thân ái. Hai ngàn năm trước, lúc mà ngành viễn liên chưa ra đời, sứ đồ Phao-lô đã dạy “Lời nói anh em phải có ân hậu theo luôn, và nêm thêm muối, hầu cho anh em biết nên đối đáp mi người là thể nào” (Cô-lô-se 4:6). Nếu tất cả người chủ của những chiếc điện thoại di động đều ghi nhớ và áp dụng câu Kinh Thánh đó thì thế giới nầy sẽ đẹp hơn biết bao!
(Đề tài nầy tác giả đã đăng trên báo Việt Luận. Nay sửa lai đôi chút.)

Thursday, 3 November 2011

IN GOD WE TRUST


Thứ Ba ngày 1 tháng 11, 2011 vừa qua, Hạ Viện Mỹ bỏ phiếu tái xác nhận “In God We Trust” vẫn là câu phương châm của đất nước Hoa Kỳ. Những nhà lập pháp với 396 phiếu thuận, 9 phiếu chống và 2 phiếu trắng đã một lần nữa minh định niềm tin nơi Thiên Chúa của dân tộc xứ Cờ Hoa.
                Việc một lần nữa xác nhận câu phương châm lừng lẫy nầy sẽ là yếu tố hổ trợ tinh thần và khích lệ mạnh mẽ khi trưng bày chính thức ở những chỗ công cộng, trường học và cơ quan chính phủ.
                Giòng chữ “In God We Trust” xuất hiện lần đầu tiên trên những đồng tiền đúc trong thời nội chiến 1864, dưới sự lãnh đạo của Tổng thống Abraham Lincoln. Chính phủ của Tổng thống Lincoln tuyên bố rằng sẽ khắc những chữ đó lên đồng bạc, vì “một quốc gia chỉ hưng thịnh nếu tin cậy vào sức toàn năng của Thượng Đế và yên bình trong sự bảo vệ của Ngài”. Sau đó vào năm 1956, trong thời Tổng thống Eisenhower, được chính thức công nhận là phương châm của nước Mỹ. Và năm 1957 hàng chữ  nầy bắt đầu xuất hiện trên những đồng đô-la bằng giấy. Từ đó đến nay, giữa những biến thiên lịch sử không thiếu những kẻ chống đối, đòi hủy bỏ hay thay đổi, nhưng năm nay lại một lần nữa người Mỹ xác quyết lòng tin bất biến của họ vào Đấng Toàn Năng.
                Khái niệm của phương châm nầy ta có thể tìm thấy nhiều lần trong Thánh Kinh, nhất là trong thơ thánh Thi Thiên. Lần giở những đoạn như 20:7, 56:11, hay 62:5 và nhiều chỗ khác nữa,Thiên Chúa lặp đi lặp lại lời kêu gọi “hãy tin Ta”, “hãy tin vào Ta”. Suốt chiều dài lịch sử, niềm tin nơi Thiên Chúa là đề tài lớn nhất cho mọi thời đại. Với Cựu Ước đức tin là “hi vọng”, đến thời Tân Ước đức tin là nền tảng của “sự cứu rỗi”, là chìa khóa của mối tương giao giữa Trời và người. Nhưng dù ở giai đoạn nào của thời gian, thì đức tin vẫn sánh bước với hi vọng và tình thương. Phao-lô đã kết hợp ba điều quan trọng đó trong tuyệt tác phẩm I Cô-rinh-tô 13: Nên bây giờ còn có ba điều nầy: đức tin, sự trông cậy và tình yêu thương. Nhưng điều trong hơn hết trong ba điều đó là tình yêu thương”.