Tuesday, 28 February 2012

SI-MON PHI-E-RƠ


Trong bài nầy và một số bài kế tiếp, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu về 12 môn đồ của Chúa Giê-xu. Sự sắp xếp thứ tự dựa vào bảng danh sách ghi lại trong sách Mathio 10:1-4.
            Ngày nay du khách đến Ca-bê-na-um bên bờ biển hồ Ga-li-lê, sẽ thấy có một ngôi làng đánh cá thời cổ còn sót lại. Người ta tin rằng đó là nơi cư ngụ của gia đình Phi-e-rơ, người chài lưới, đã được Chúa Giê-xu kêu gọi làm môn đồ. Về sau ông trở thành nhà lãnh đạo của 12 sứ đồ và Hội Thánh đầu tiên.
            Tên khai sanh của ông là Si-môn, nghĩa là “người nghe”. Nhưng khi gặp Chúa Giê-xu, Ngài cho ông một tên mới là Sê-pha, theo tiếng A-ram, tức là Phi-e-rơ trong tiếng Hi-lạp. Tên nầy nghĩa là « vầng đá » hay « hòn đá ». Những điều chép về Phi-e-rơ thì rất nhiều, chúng ta có thể tìm thấy trong bốn sách Phúc Ấm, Công vụ đoạn 1 đến 15, và hai thư tín mà chính ông đã viết (I và II Phi-e-rơ). Thánh Kinh đã ghi lại rất rõ nét về con người và tánh tình của ông. Một con người dạn dĩ, ngay thẳng, tự tin, có lòng yêu thương và trung tín với Chúa, dù đã có lần thất bại trước lúc Ngài chịu đóng đinh. Có khi ta cũng bắt gặp một Phi-e-rơ hấp tấp, thiếu sự bền lòng và dễ thay đổi. Những đức tánh và sự lầm lỗi của ông phát sinh từ bản chất của một người sôi động, hăng hái, nhiệt thành.
            Cho đến nay người ta vẫn còn tranh cãi nhau về ý nghĩa của lời phán của Chúa Giê-xu trong Ma-thi-ơ 16 :18 về tên Phi-e-rơ và địa vị của ông trong Nước Trời. Nhưng qua suốt chiều dài lịch sử, giáo hội Công giáo luôn công nhận Phi-e-rơ là giáo hoàng đầu tiên. Vị giáo hoàng thứ nhứt nầy có gia đình, thường du hành đến nhiều nơi và dắt vợ đi theo (I Cô-rinh-tô 9 :5).
            Truyền khẩu ghi rằng, Phi-e-rơ chịu tử đạo tại thành La-mã trong thời bách hại của hoàng đế Ne-ron, vào năm 67SC, lúc 75 tuổi. Ông đã bị đóng đinh trên thập tự giá với đầu giốc ngược xuống đất theo như ông yêu cầu, vì như ông nói « tôi thấy mình không xứng đáng chịu chết giống như Chúa của tôi » !

Saturday, 18 February 2012

“ĐẠI BÀNG BỐ”


Cậu bé Hà Nghi Đức là một đứa trẻ sinh non. Bác sĩ cho biết cậu có thể bị bịnh liệt não. Để con có thể tồn tại và sống khỏe mạnh, bố của cậu đã dùng cách riêng của mình để tạo động lực và sức mạnh cho cậu. Từ lúc mới 6 tháng, mỗi ngày cậu đều trải qua những bài tập thể chất khắc nghiệt. Mới đây, vào ngày 22/1/2012, từ Trung quốc gia đình Hà Nghi Đức sang New York vào dịp nghỉ Tết, lúc đó là mùa Đông, trời lạnh 13 độ âm (dưới 0 độ). Bố của cậu đã cho cậu chạy trên đường phố phủ đầy tuyết với chỉ đôi giày thể thao và chiếc quần sịp nhỏ xíu. Đoạn video clip còn  ghi lại sau khi chạy, bố của cậu còn hối thúc cậu tập hít đất trên tuyết.
                Khi đoạn clip nầy tung lên mạng, đã gây một cuộc tranh cãi và người bố em bé đước đặt tên là “Đại bàng bố”. Sỡ dĩ có tên nầy là vì theo đời sống loài chim đại bàng, khi đại bàng con phát triển đến tuổi trưởng thành, đại bàng mẹ sẽ thả nó từ trên vách núi cao để dạy con học bay.
                Đọc câu chuyện trên đầy Bạn có liên tưởng đến phần nào trong Thánh Kinh không? Xin hãy mở sách Phục Truyền 32: 10-12 và chú ý đến câu 11. Tác giả Môi-se đã dùng hình ảnh chim phượng hoàng dạy cho con tập bay để nói lên sự quan phòng của Chúa. Phượng hoàng hay còn gọi là đại bàng là giống chim rất lớn, thường làm tổ trên ngọn núi cheo leo hay trên đỉnh của những cây đại thụ. Khi con đã lớn, lông cánh đầy đủ, chúng vẫn nằm mãi trong nôi. Một ngày nọ, chim mẹ dùng chiếc mỏ cứng của mình rung mạnh vào tổ, làm chim con sợ hãi, vọt ra khỏi ẩn náu an toàn từ bấy lâu, tung mình vào khoảng không, và đôi cánh bắt đầu đập mạnh để bay. Nhưng vì là lần đầu, chỉ vài phút là mỏi cánh, rơi xuống vực sâu. Đã đoán trước điều đó, chim mẹ bay sà xuống dưới, sãi đôi cánh rộng của mình cho chim con sa vào đó. Sau nhiều lần luyện tập, chim con có thể hiên ngang tự tung mình trên bầu trời xanh thẳm.
                Chúa yêu và trân quí chúng ta như “con ngươi của mắt Ngài”. Nhưng Ngài cũng muốn ta trưởng thành, can đảm cất cánh bay cao. Dù có khi cách tập luyện của Ngài làm chúng ta dường như mất đi sự an bình trong chiếc tổ ấm êm. Nhờ thế mà từ nay ta có thể bay lượn vào cõi không gian vô tận!
                “Như phượng hoàng phấp phới giỡn ổ mình, bay chung quanh con nhỏ mình, Sè cánh ra xớt nó. Và cõng nó trên chéo cánh mình thể nào. Thì một mình Đức Giê-hô-va đã dẫn dắt người thể ấy. Không có thần nào khác ở cùng người”. Phục truyền 32:11-12.

Wednesday, 15 February 2012

DÂN A-MA-LÉC


Cách nay mấy tuần chúng tôi có nhận một câu hỏi qua Email, xin trả lời trên bài viết nầy để Quí Vị cùng chia xẻ. Câu hỏi như sau:
                “Tôi đọc Kinh Thánh đến chỗ sách Xuất Ê-díp-tô Ký 17 có ghi lại một trận chiến rất thú vị giữa dân I-sơ-ra-ên và dân A-ma-léc. Xin hỏi dân A-ma-léc có nguồn gốc từ đâu và hiện nay là dân tộc nào?’.
            Xin thưa, nếu đọc lại sách Sáng Thế Ký 36:16 sẽ cho ta biết A-ma-léc la dân thuộc dòng dõi Ê-sau, tức là dòng dõi của con trưởng nam của Y-sác. Như vậy, họ có bà con rất gần với dân I-sơ-ra-ên. Nhưng Thánh Kinh cho biết họ luôn luôn làm kẻ thù của dân tộc Chúa và là mối đe dọa cho sự tồn vong của nước I-sơ-ra-ên trong thời lập quốc.
            A-ma-léc là giống dân du mục (Các qua xét 6:5), sống quanh quẩn ở phía nam nước Do Thái và vùng biên giới Ai-cập, giữa sa mạc Si-na-i. Họ là một trong những giống dân đã cư ngụ ở xứ Ca-na-an trước khi người Do-thái đến chinh phục. Họ bị xem là những người “không kính sợ Chúa” và thường đón đường người Do-thái trên đường về đất hứa, nên hai bên có nhiều cuộc giao chiến với nhau như Xuất Ê-díp-tô Ký đoạn 17 ghi lại. Về sau Môi-se luôn nhắc nhở dân sự Chúa về cách mà dân A-ma-léc đã đối đãi với họ (Phục 25:17). Sau khi đã vào đất hứa, trong suốt mấy trăm năm lập quốc, người A-ma-léc luôn luôn quấy phá, chiến tranh với dân tộc I-sơ-ra-ên (Các quan xét 3:13, 7:12,). Tội lớn nhất của họ là ngăn cản dân I-sơ-ra-ên uống nước mà Chúa ban cho để sống ở Rê-phi-đim khi dân sự lang thang trong sa mạc cằn cỗi.
Bốn trăm năm sau khi chinh phục đất hứa, Đức Chúa Trời ra lệnh vua Sau-lơ tiêu diệt dân A-ma-léc! Cuộc hành quân được ghi lại trong sách Sa-mu-ên 14:47-15:23. Sau trận chiến nầy, sử ký người Hê-bơ-rơ không còn thấy nói đến dân A-ma-léc nữa!

Wednesday, 8 February 2012

HẠNH PHÚC


Cuối năm 2011 vừa qua,viện nghiên cứu Legatum Institute xếp hạng 110 quốc gia có mức lợi tức cao trên thế giới và đánh giá những quốc gia nào hạnh phúc nhất hay đau buồn nhất trên thế giới. Na-uy liên tục ba năm đứng đầu là quốc gia mà dân chúng được hạnh phúc nhất. Trong khi đó nước Úc đứng hang thứ ba trên thế giới. Năm quốc gia có chỉ số hạnh phúc nhất gồm có: 1. Na-uy, 2. Đan Mạch, 3. Úc, 4. Tân Tây Lan, 5. Thụy Điển, Mười nước đứng đầu bảng còn có Phần Lan, Thụy Sĩ, Hòa Lan, Canada đứng hạng 6 và Mỹ được xếp hạng 10. Trong khi đó năm nước có tình trạng buồn thảm nhất là 1. Cộng hòa Trung Phi, 2. Zimbabwe, 3. Ethiopia, 4. Pakistan và 5. Yemen. Bạn hãy nhớ cầu nguyện hằng đêm cho dân tộc của những quốc gia nầy nhé!
                Quay về với nước Úc chúng ta đang sống. Vào dịp cuối năm 2011, báo Herald Suns đã tìm hiều những gì làm cho cuộc sống chúng ta hạnh phúc. Và sau cuộc thăm dò 60.000 người đã đưa đến kết luận như sau: 36 phần trăm cho rằng mối tương quan gia đình và bằng hữu là chìa khóa của hạnh phúc, 19 phần trăm cho rằng hạnh phúc là do những cuộc vui và giải trí mang lại, 14 phần trăm: sức khỏe và sự quân bình của đời sống, 13 phần trăm: do lòng biết ơn, 7 phần trăm: do công việc làm ăn và thành đạt, 4 phần trăm: do sự phát triển khoa học, 3 phần trăm: do sức tự lập, 3 phần trăm còn lại thì cho rằng hạnh phúc là do lòng bố thí và việc làm từ thiện.
                Là công dân của một nước có chỉ số hạnh phúc đứng vào hạng ba trên toàn thế giới, bạn có hãnh diện không? Bạn có thấy hài lòng với cuộc sống của mình không? Hay nói cách khác: Bạn có thật sự hạnh phúc không? Như kết quả của cuộc thăm dò của báo Herald Sun, đa số đều nhận ra rằng hạnh phúc đến là bởi một mối tương giao. Chúng ta sẽ tự hỏi trong số 60,000 người được thăm dò sao không ai đề cập đến niềm tin tôn giáo? Lẽ nào người Úc không còn tin vào Đấng Tối Cao chăng? Cũng có thể một phần. Nhưng nghĩ cho cùng thì niềm tin vào một tôn giáo chưa chắc đem lại cho con người hạnh phúc. Mà là bởi một mối tương giao thật sự! Chỉ khi nào ta có mối tương giao thật với Thượng Đế, chỉ khi nào ta có lòng chân thành với những người chung quanh, chỉ khi nào tâm ta tuôn trào tình yêu, thì ta mới tìm ra nguồn cội của hạnh phúc mà thế nhân mãi mãi kiếm tìm. Biết bao người vẫn thấy cô đơn, trống vắng, dù đang sống trong một quốc gia hàng đầu trên bảng hạnh phúc nhân loại?
PHƯỚC HẠNH CHO NHỮNG KẺ KIẾN TẠO HÒA BÌNH, VÌ HỌ SẼ ĐƯỢC NHẬN LÀ CON CỦA THIÊN CHÚA. Mathio 5:9 (bản ESV)