Wednesday, 28 March 2012

NGÔI MỘ TRỐNG


                Trong một chuyến đi Do Thái, tôi đã hai lần đến viếng Ngôi Mộ Trống mà người ta tin rằng đó là ngôi mộ đã từng chôn xác Chúa Giê-xu. Lần thứ nhứt đi cùng phái đoàn, dừng chân khoảng 30 phút, tôi đã vào bên trong ngôi mộ với sự háo hức, tò mò của một khách hành hương. Lần thứ hai tôi trở lại một mình, giành suốt hơn một giờ đồng hồ để quan sát, tìm hiểu và suy nghĩ nhiều hơn về ngôi mộ.
            Ngôi Một Trống ở bên ngoài thành Giê-ru-sa-lem cổ, giống như một cái hang được khoét sâu vào trong một tảng đá lớn, chắc chắn và kín đáo. Đây là cách chôn người chết của giới giàu có thuở xưa. Chỉ cần cúi xuống một chút ta có thể bước vào bên trong, lách mình qua một hành lang nhỏ là vào phần chính của ngôi mộ. Diện tích khá rộng, có thể ba bốn người vào cùng một lúc. Phía cuối có một bục bằng đá cao đến đầu gối, để thân xác người chết nằm. Nếu không có ngọn đèn trên vách, bên trong hẳn rất âm u. Trước cửa mộ là một tảng đá lớn dùng như cánh cửa chắc chắn, một người lực lưỡng cũng khó mà di chuyển. Xung quanh mộ ngày nay là một công viên lớn và đẹp, được chăm sóc kỹ vì là một trong những địa điểm du lịch rất được ưa thích.
            Ngồi trên một ghế đá trước ngôi mộ, thấy từng đoàn người lũ lượt vào ra, tôi chợt nghĩ đến Ma-ri, mẹ Chúa, và những người đàn bà ngày xưa đã can đảm băng mình trong buổi sớm tinh sương mang thuốc thơm đến xức xác Ngài. Hai ngàn năm trước, đây là chốn nghĩa trang hoang dã, sau ba ngày xác đã nặng mùi, nhưng vì lòng yêu mến Ngài, họ không quản ngại hiểm nguy. Mối lo chính của họ là “ai sẽ lăn hòn đá cho chúng ta?” (Mác 16:3). Đâu rồi những môn đệ ngày đêm kề cận, những trang thanh niên lực lưỡng ở độ tuổi ba mươi? Đâu rồi đoàn dân đông từng bám theo Ngài để nghe giảng dạy, để được ăn bánh no nê?  Đâu rồi những kẻ đã được chữa lành mọi tật bịnh, được kêu từ kẻ chết sống lại? Bây giờ ở đây chỉ còn các bà chân yếu tay mềm. Thật,“khi vui thì vỗ tay vào, đến khi hoạn nạn thì nào thấy ai”!
            Ngày nay chúng ta hát nhiều bản hùng ca cho ngày Lễ Phục Sinh. Nhưng thưa bạn, xin hãy nhớ rằng sự sống lại của Chúa Giê-xu đã xảy ra trong âm thầm, lặng lẽ. Khi Ngài khải hoàn bước ra khỏi phần mộ, không có đoàn dân đông reo mừng, không có những môn đệ bước đến bắt tay chúc tụng, không có chính quyền sở tại trao tặng huân chương, không có biểu ngữ hay một lẳng hoa chào đón. Ngài bước ra, để lại một ngôi mộ trống trong lúc nhân loại vẫn ngủ say. Rồi Ngài tự mình bôn ba tìm kiếm, gom góp những bạn hữu đã từng bỏ Ngài trốn chạy. Và cũng tự mình chứng minh cho họ rằng Ngài đã sống lại từ trong kẻ chết!
            Thế mà lạ chưa? Sự phục sinh âm thầm đó lại là khởi điểm của một đợt sóng cuồn cuộn từ năm này qua năm khác, từ thế hệ nầy tiếp nối những thế hệ ngàn sau, chinh phục mỗi tấm lòng, làm bừng sáng mọi tâm hồn tan vỡ và dẫn dắt họ vào cõi vĩnh sinh!
            Tôi ngồi đây, bên Ngôi Mộ Trống, tự thấy mình thân phận khác nào một hạt cát giữa hàng triệu triệu sinh linh. Hạt cát nầy có thể bám vào vách mộ, hằng ngày nhìn thấy hàng hàng lớp lớp khách hành hương bỏ ra rất nhiều tiền bạc và công khó để đến “tìm người sống trong vòng kẻ chết”(Lu-ca 24:5). Hạt cát nầy có thể chỉ rơi vào chiếc giày của khách bộ hành, làm cho họ khổ sở, khó chịu. Hay hạt cát nầy được bám theo gót chân Chúa khi Ngài bước ra khỏi chốn mộ phần, chiến thắng sự chết và dấn thân vào mọi hang cùng ngõ hẻm để truyền bá sứ điệp yêu thương!
            “Ngài không ở đây đâu, Ngài sống lại rồi!” (Ma-thi-ơ 28:6))

Saturday, 17 March 2012

GÔ-GÔ-THA


Ngày nay du khách đến Do-thái có thể đi xem ngọn đồi Gô-gô-tha nằm ở vùng ngoại thành Giê-ru-sa-lem cổ. Đứng dưới triền giốc, nhìn lên Gô-gô-tha, ta có thể hình dung ngọn đồi giống như một chiếc sọ người, nên Gô-gô-tha còn có tên là đồi Sọ.
            Gô-gô-tha trở thành một địa danh quen thuộc khi người La-mã đóng đinh Cứu Chúa Giê-xu trên cây thập tự tại giữa đỉnh đồi cùng với hai tên trộm cướp. Sau hai ngàn năm, trở lại ngọn đồi nổi tiếng đó, ta vẫn chỉ thấy một khung cảnh hoang sơ, rờn rợn của một nơi giành riêng cho việc xử tử những tội nhân hình sự. Giết chết những người mang tội trộm cướp, giết người, chống đối chính quyền…bằng cách đóng đinh trên cây thập tự là lối hình phạt dã man nhất mà người La-mã đã nghĩ ra. Hình phạt nầy chỉ giành riêng cho giới tội phạm của những dân tộc sống dưới ách thống trị. Những ai có quyền công dân La-mã dù có phạm tội rất trọng cũng không phải chịu hình phạt khủng khiếp nầy.
Chết trên thập hình là một cái chết kinh hoàng nhất. Tội nhân bị lõa lồ. Hai cổ tay và hai bàn chân bị đóng đinh vào thập tự. Dưới cái nắng gay gắt của miền nhiệt đới, cả cơ thể bị ghì xuống, toàn thân sưng vù lên, cái chết đến từ từ trong nỗi đau đớn cùng tột. Tội nhân lúc đầu chửi mắng những kẻ đóng đinh mình, sau đó là than vãn, rên siết. Nhiều giờ đồng hồ chịu đựng, họ ngất lịm trong cái đói, cái khát để đi vào cõi chết bi ai. Thật là một cách xử tử làm cho mọi người khiếp sợ! Chẳng những người chết đau đớn, mà gia đình thân nhân rất lấy làm xấu hổ. Nhiều tội phạm không ai muốn nhìn nhận, đã bị vùi thây xung quanh ngọn đồi Gô-gô-tha hoang lạnh. Hiểu như thế, ta mới kinh ngạc tận tâm khảm rằng tại sao Đức Chúa Trời lại để cho Con Một Ngài, Đấng vô tội, lại chịu chết trên cây hình chữ thập. Hiểu như thế, ta mới lầy làm lạ lùng rằng sau hai ngàn năm, đa số dân tộc Ý-đại-lợi, chính là con cháu của người La-mã thuở xưa -những kẻ đã nghĩ ra hình phạt xấu xa nhất- lại là những người Công giáo thuần thành, luôn hãnh diện đeo trên mình hình cây thập tự! Cái chết kỳ diệu của Chiên Con đã hoán đổi toàn bộ ý nghĩa của một thứ hình phạt dã man!
            Cảm xúc sâu đậm nhất khi nhìn lên đồi Gô-gô-tha, là bạn dường như nghe lại tiếng thì thầm bên tai “Khi Ta đã được treo lên khỏi mặt đất, Ta sẽ khiến mọi người đến cùng Ta” (Giăng 12:32). Viết lại câu Thánh Kinh nầy, tác giả thấy như có một giòng điện chạy khắp châu thân. Rung động đến tận cùng tâm khảm. Câu chuyện đã hơn hai ngàn năm mà tưởng chừng đang xảy ra trước mắt. Vâng, bạn sẽ thấy lần đầu tiên tại Gô-gô-tha có lời cầu nguyện  thống thiết cho những kẻ đã đóng đinh mình (Luca 23:33-34)). Bạn sẽ thấy lần đầu tiên có tiếng nói thân tình của một hiếu tử trao mẹ mình lại trong sự chăm sóc của người bạn chí thân (Giăng 19:26-27). Bạn sẽ lần đầu tiên thấy một đại tội nhân hoán cải và tức khắc được tha thứ (Luca 23:42)). Và Bạn sẽ chứng kiến lần đầu tiên cõi thiên đàng phước hạnh xuất hiện giữa chốn tử hình hung bạo nhất trần gian (Luca23:43)). Đó chính là những lý do mà thập tự giá, đồi Gô-gô-tha không còn là mối kinh hãi nữa! Đó chính là lý do mà biểu tượng xấu xí nhất, ghê rợn nhất đã và đang trở thành tâm điểm chinh phục hàng triệu triệu tâm hồn tan vỡ và dẫn đưa họ vào cõi phước hạnh, an bình!
            “Khi các ngươi treo Con Người lên, bấy giờ sẽ biết Ta là ai” (Giăng 8:28).

Thursday, 15 March 2012

Sứ đồ GIA-CƠ


Trong số 12 môn đồ của Chúa Giê-xu, ngoại trừ Giu-đa Ích-ca-ri-ốt chết vì tự tử, Gia-cơ là người đầu tiên đã hi sinh vì Đạo. Câu chuyện tuẫn đạo của một trong ba môn đồ luôn luôn kề cận bên Chúa đã được ghi lại trong sách Công-vụ 12:1-3).
            Gia-cơ là anh của Giăng, con trai của Xê-đê-bê và Sa-lô-mê. Sa-lô-mê có bà con với Ma-ri là mẹ của Chúa (Mathio 27:56, Mác 15:40, 16:1). Hai anh em nghe theo tiếng gọi, bỏ nghề chài lưới mà theo Ngài. Có lần hai anh em nổi nóng với người Sa-ma-ri khi họ không chịu tiếp rước Chúa, đã xin Ngài giáng lửa từ trời xuống thiêu đốt dân nầy (Lu-ca 9 :53-54). Vì tánh nóng nảy đó, Chúa đã ban cho hai ông một tên mới là Bô-a-nẹt, nghĩa là « con trai của sự sấm sét »(Mác 3 :17). Một lần khác hai anh em cũng đã gây bất hòa giữa vòng môn đồ Chúa, vì lòng ganh tị, Sa-lô-mê là mẹ đã đến xin Ngài cho hai con mình làm hữu tướng quân và tả tướng quân khi Ngài lên ngôi cai trị (Mathio 20 :20-28, Mác 10 :35-45). Tất cả những yếu đuối, ham muốn trần tục nầy đã thay đổi sau khi nhìn thấy sự vinh hiển của Ngài qua sự chết, phục sinh và ngự về trời (Công vụ 1:12-14).
            Vào năm 44 SC, vua Hê-rốt Ạc-ríp-ba đã giết Gia-cơ vì muốn làm đẹp lòng dân sự. Giáo phụ Clement thuật lại lời truyền khẩu rằng trong lúc xử án, có một người trong bọn cầm quyền thấy sự can đảm vì Danh Chúa của Gia-cơ, đã hối cải, tin nhận Chúa ngay lúc đó và xin Gia-cơ tha tội. Gia-cơ hôn người và chúc phước « Bình an cho con », rồi cả hai cùng bị xử trảm.                                    (Ghi chú: thư tín Gia-cơ không phải do Gia-cơ, môt trong 12 môn đồ của Chúa viết, mà là Gia-cơ em ruột của Chúa viết vào năm 45 sau công nguyên).