Tuesday, 28 July 2015

CỘI NGUỒN CỦA VŨ TRỤ THEO QUAN ĐIỂM KHOA HỌC

Người Việt Nam hay người Trung Hoa từ nhỏ đã thấm nhuần triết học Đông phương, đặt nền tảng trên Lão Giáo và Phật Giáo. Hai tôn giáo nầy quan niệm rằng vũ trụ không nhất thiết phải có khởi thủy, nghĩa là không có buổi ban đầu. Vì thế chúng ta ít quan tâm đến câu hỏi vũ trụ từ đâu mà có? Hay ai đã dựng nên trời đất mà con người đang sống trên đó?
Theo nguyên lý Đạo của Lão giáo thì Đạo sinh ra âm dương, khí, trời, đất và muôn loài vạn vật. Khi muôn vật đạt đến tận cùng của phồn thịnh thì sẽ trở về với Đạo. Chu kỳ cứ thế mà tuần hoàn, không có khởi thủy mà cũng không có tận cùng, chung kết.
Phật giáo cũng phủ nhận buổi ban đầu của vũ trụ. Quan điểm của nhà Phật cho rằng thế giới là một bản thể sinh động, không ngừng thay đổi. Không có ban đầu, cũng không có kết thúc, mọi sự xảy ra theo sự luân chuyển của chu kỳ nối tiếp mà họ gọi là luân hồi. Vạn vật sống chết theo sự xoay vần của lục đạo: Thiên đạo (cõi trời), qua Nhân đạo (cõi người), Atula đạo (cõi quỷ thần), Quỷ đạo (cõi ma quỷ), Súc sinh đạo (cõi loài vật) và Địa ngục đạo (cõi trầm luân). Nhờ tu tâm luyện tính, vượt qua kiếp luân hồi, sẽ trở thành Phật ở cõi niết bàn, tức chốn hư vô, nơi mà đau khổ và sự chết sẽ chấm dứt vĩnh viễn.
Chứng minh rằng muôn vật đã được tạo dựng từ buổi ban đầu thật ra không phải là dễ, bởi vì ngoài triết học, tôn giáo, còn có các ngành khoa học đã dẫn đưa nhân loại đến bờ vực vô thần. Xã hội vật chất, tư tưởng cá nhân và niềm tự hào tiến bộ lại càng khiến con người xa cách Đấng Tạo Hóa và khước từ sự hiện hữu của Ngài. Tuy nhiên, nếu chịu khó tìm hiểu cặn kẽ về nguyên lý nhân quả của Đông phương và khoa học Tây phương chúng ta sẽ phải nhìn nhận rằng mọi biến chuyển trong vũ trụ đều có liên quan mật thiết với nhau. Ngay cả những hành tinh xa xôi cũng có thể ảnh hưởng đến sự sống trên quả địa cầu. Tính liên đới, thống nhất của từng thành phần trong vũ trụ đã chứng minh rằng có một bàn tay huyền diệu tạo nên muôn loài vạn vật.
Câu đầu tiên khi mở quyển Thánh Kinh chúng ta đọc rằng “Ban đầu Đức Chúa Trời dựng nên trời đất” (Sáng thế ký 1:1). Dòng chữ khẳng định nầy là nền tảng đức tin của Cơ-đốc-giáo về Đấng Tạo Hóa. Điều kỳ lạ là khi ngành khoa học thiên văn ngày càng phát triển, thì câu Kinh Thánh nầy lại càng được chú ý nhiều hơn. Khi con người có khả năng đi ngược về quá khứ, tìm hiểu sự phát sinh của vũ trụ, thì con người lại càng kinh ngạc về những điều kỳ diệu hình thành để rồi phải trở lại vấn đề nguyên thủy: Ai đã tạo dựng nên tất cả? Hay chỉ là sự ngẫu nhiên mà có? Và càng nghiền ngẫm để tìm câu giải đáp, thì lời kinh văn của Sáng thế ký 1:1 lại trở về trong trí óc của những nhà khoa học “Ban đầu Thiên Chúa dựng nên trời đất”!
Với những viễn vọng kính khổng lồ cùng những kỹ thuật tân kỳ hiện đại, các nhà khoa học ngày nay có thể quan sát đến những thiên hà xa xôi nhất. Kỹ năng của khoa học còn có thể đi ngược thời gian để tìm hiểu lịch sử của vũ trụ. Kỳ diệu thay, càng trở ngược về quá khứ họ lại càng thấy tất cả dường như hội tụ về một điểm chung. Đây là điểm mà các nhà khoa học gọi là điểm thời gian bằng zero (thời gian = 0) và không gian bằng zero (không gian = 0). Điều nầy mặc nhiên công nhận rằng vũ trụ mênh mông có một điểm khởi đầu.
Nghiên cứu về kết cấu của sự sống trên địa cầu cũng cho thấy mọi vật không ngẫu nhiên mà có. Để kết hợp nên sự sống cần ba yếu tố: DNA, RNA và PROTEIN. DNA tựa như một họa đồ để xây một căn nhà, RNA là thợ xây nhà. Và PROTEIN là vật liệu để xây căn nhà đó. Để cấu tạo nên một con người với biết bao tế bào, phong phú và đa dạng, biết suy nghĩ, có tình cảm, lương tri thì hẳn là không phải do một sự kết hợp tình cờ.
Càng khám phá về vũ trụ bao la hoặc về sự kỳ diệu của cơ thể con người, các nhà khoa học lại càng kinh ngạc về sự sắp đặt lạ lùng. Có người lại lấy làm khó chịu khi phải nói lên rằng có một Đấng khởi đầu những kỳ quan của thiên nhiên. Chính nhà bác học Albert Einstein lúc đầu cũng không tin rằng có khởi thủy của vũ trụ, nhưng về sau ông phải công nhận sự sai lầm của mình và cho rằng đó là sự lầm lẫn lớn nhất trong đời ông.  Einstein thốt lên rằng “điều không thể hiểu được về thế giới nầy là tính cách hợp lý của nó” (The incomprehensible of this world is its comprehensibility). Lãnh tụ cộng sản Mao Trạch Đông từng phải ra lệnh bắt giam những nhà khoa học nào dám công khai nhìn nhận có khởi thủy của vũ trụ. Vũ trụ nào phải là một bức tranh hổn độn, không theo quy luật, mà là một tấm chân dung sống động, có giá trị và hợp nhất kỳ lạ dường bao!
Trong những năm tháng cuối cùng của cuộc đời, nhà bác học vĩ đại nhất của thế kỷ 20, Albert Einstein đã viết lên rằng: “Tôn giáo của tôi là việc hạ mình chiêm ngưỡng Đấng có tinh thần tối cao, vô thượng lại bày tỏ chính mình Ngài qua những chi tiết nhỏ nhặt, tầm thường”.

Lê Trần (26/7/2015)

Friday, 24 July 2015

LOÀI NGƯỜI QUA TƯ TƯỞNG CỦA BLAISE PASCAL


Pascal là một triết gia người Pháp, sống vào thế kỷ 17, cách nay hơn 300 năm. Nhiều người biết đến ông qua câu nói bất hủ: “Con người là một cây sậy yếu ớt, nhưng là một cây sậy có tư tưởng”.
Pascal sinh ngày 19 tháng Sáu năm 1623 tại Clemont, Pháp quốc. Năm 1631 gia đình ông dời về sống tại Paris. Lên ba tuổi, mẹ mất, ông sống với người cha, một nhà toán học nổi tiếng. Cha của ông đã tận tụy dạy dỗ ông nên người.
Từ nhỏ, Pascal đã thừa hưởng năng khiếu về toán của thân phụ. Năm 16 tuổi ông đã phát hành một đề tài toán học về thành phần của hình nón làm ngạc nhiên nhiều vị giáo sư. Năm 18 tuổi ông chế được máy tính để giúp cha khai thuế. Sau đó ông chế ra ống tiêm chích, máy ép dầu dựa căn bản trên một định luật mà ngày nay chúng ta gọi là “luật áp suất của Pascal”. Ông cũng nghiên cứu những đề tài vật lý về chân không và nổi tiếng với phép tính xác xuất.
Nhưng gia tài lớn lao nhất mà Pascal để lại cho đời là tư tưởng Biện Giáo về Cơ-đốc, về mối tương giao giữa con người với Thượng Đế, về sự liên hệ cần thiết của mỗi cá nhân với Chúa Cứu Thế Giê-xu. Những biện giải của ông về Cơ-đốc-giáo từ thế kỷ 17 nhưng tầm ảnh hưởng liên tục và bền vững cho đến thời hiện đại, đến nỗi triết gia Peter Kreef đã phát biểu: “Pascal đã đi ba thế kỷ trước thời đại của ông”.
Phân tích về loài người, Pascal nhìn thấy sự mâu thuẫn giữa tốt và xấu, giữa tinh thần hướng thượng và bản ngã hư đốn. Ông cho rằng loài người là tổng hợp giữa cao quý và tồi tệ. Cao quý vì loài người được tạo dựng theo ảnh tượng của Đức Chúa Trời; tồi tệ vì chìm đắm trong tội lỗi và xa cách Ngài. Qua những dòng chữ thiết tha, ông viết:
“Loài người kỳ dị biết bao. Loài người ngu xuẩn, hỗn tạp, mâu thuẫn, nhưng là tạo vật phi thường. Loài người chịu xét đoán trong mọi vấn đề của đời sống, nhưng thật ra chỉ là loài sâu bọ yếu đuối. Loài người xây dựng cho mình biết bao chân lý, nhưng lại đắm chìm vào cõi nghi ngờ và lầm lỗi. Loài người được vinh danh nhưng cũng là cặn bã của vũ trụ”.
Đối với Pascal, điều rất quan trọng là “biết mình là ai”. Bởi vì, theo ông, khi con người nhận thức mình hư đồi là lúc con người bắt đầu chứng tỏ mình trở nên cao đẹp. Ông viết: “Thật là nguy hiểm cho một cá nhân biết Thiên Chúa mà không biết mình xấu xa tội lỗi. Hoặc là biết mình xấu xa tội lỗi, nhưng lại không biết đến Đấng Giải Phóng linh hồn”. Pascal thường nói rằng tận nơi sâu thẳm tâm khảm con ngươi nhận biết có một điều gì đó bất ổn, nhưng họ không chịu ngừng lại một chút để suy nghĩ về nan đề mình đang đối diện.
Một khi con người rơi vào hoàn cảnh hoàn toàn yên nghỉ, không say mê, không nghề nghiệp, không cần cố gắng, không cần phấn đấu, thì bỗng dưng họ đương đầu với sự vô dụng, cô đơn, trống rỗng. Ngay lúc đó tự trong nơi thầm kín của tâm hồn nổi lên trạng thái chán chường, âu sầu, tủi nhục và chất chứa nỗi thất vọng vô biên.
Để giải quyết tâm trạng đó con người có hai cách: tiêu khiển hoặc thờ ơ.
-Tiêu khiển: Pascal nói rằng chúng ta tìm thú tiêu khiển, vui chơi để lấp vào khoảng trống của thời gian. Những hoạt động thoáng qua đó chỉ đơn giản là tránh né việc phải đương đầu với sự thật phủ phàng, với sự hư đồi của chúng ta mà thôi. Điều duy nhất con người có thể làm là tìm lạc thú giải khuây để không suy nghĩ đến hoàn cảnh của mình. Cờ bạc, say sưa làm chúng ta bận rộn trong tình cảnh như vậy.
-Thờ ơ: Câu hỏi vẫn thường đeo đuổi con người “Sau cái chết có gì?”. Cuộc đời là phù du, chỉ vài mươi năm, nhưng cái chết là vĩnh viễn. Như vậy tình trạng sau cái chết phải trở nên quan trọng. Nhưng thái độ của con người là: Bởi vì tôi không biết tôi đến từ đâu, nên tôi cũng không cần biết mình sẽ về đâu. Từ đó nhân loại thờ ơ với cõi đời đời. Họ sống cho qua hết kiếp người mà không dám, không cần nghĩ đến việc gì sẽ xảy ra sau khi bước vào cõi thiên thu.
Pascal lấy làm kinh hoàng trước sự suy nghĩ của loài người. Điều ông cố hết sức làm là chuyển hướng nhân loại tìm về sự nhận biết và thờ phượng Thiên Chúa Chân Thật.
Trong những năm cuối cùng của cuộc đời ông bỏ hết thời giờ để phát huy tư tưởng tâm linh. Ngoài tác phẩm “Pensees” nhấn mạnh đến niềm tin Cơ-đốc ông còn viết 18 bức thư nổi tiếng có tựa đề “Provincial Letters” được các nhà phê bình cho là khởi đầu của nền văn chương mới của Pháp.
Pascal khẳng định rằng con người không thể thu nhận mọi kiến thức do sự khôn ngoan riêng của mình, mà phải nhờ đến đức tin. Ông viết:”Đức tin mách bảo cho chúng ta những điều cảm xúc không làm được”. Ông cũng tin nhận rằng Thiên Chúa không chỉ là Đấng sáng tạo vũ trụ, mà Ngài còn là một Đức Chúa Trời yêu thương, gần gủi với loài người.
Ở cuối cuộc đời, Pascal luôn giục giã mọi người tìm kiếm sự cứu rỗi trong Chúa Giê-xu. Trước giờ phút lâm chung, Pascal viết rằng:”Tôi dang hai cánh tay mở rộng đến với Chúa Cứu Thế của tôi. Ngài đã đến thế gian để chịu đau đớn và chết thay cho tôi”.  Ông qua đời vào ngày 19 tháng Tám năm 1662 tại thành phố Paris, hưởng dương 39 tuổi. Mặc dù cuộc đời thật ngắn ngủi, người tín đồ nhiệt tình nầy đã để lại những đóng góp phi thường cho khoa học, toán học, văn hóa và tư tưởng cao sâu về nhân sinh và Cơ-đốc-giáo.
Nhân loại ngày nay cũng đang đi tìm những triết lý, thú vui, vật chất để thay thế cho sự cứu rỗi của Đấng Hằng Sống. Nhưng rồi, cuối cùng chẳng có điều chi có thể thay thế Ngài. Mong rằng chúng ta đáp ứng lời kêu gọi thiết tha của Cha Thiên Thượng như Pascal đã làm, là quay về nếm trải sự ngọt ngào trong mối tương giao mầu nhiệm: “Khá nếm thử Đức Giê-hô-va là tốt lành dường bao! Phước cho người nào nương náu mình nơi Ngài. Hỡi các thánh, hãy kính sợ Ngài; vì kẻ nào kính sợ Ngài chẳng thiếu thốn gì hết” (Thi Thiên 34:8-9)
 Lê Trần

23/7/2015

BA CHỮ CẦN HỌC

Khi mới sang định cư tại Úc, đi học tiếng Anh tôi được bạn bè khuyên nên thuộc lòng và thường xuyên xử dụng ba chữ: PLEASE (XIN VUI LÒNG), THANK YOU (CẢM ƠN) và SORRY (XIN LỖI). Đó là những chữ cần có trong phép lịch sự ở xứ nầy.
Mới đây, hôm thứ Tư ngày 20 tháng 5 năm 2015, khi gặp gỡ khách hành hương đến Roma, đức Giáo hoàng Francis đã nói rằng “vui lòng, cảm ơn và xin lỗi” là ba tiếng mà người ta nên viết trước cửa nhà, vì đó là chìa khóa sống đẹp, sống an hòa cả bên trong lẫn bên ngoài gia đình của mỗi cá nhân. Giáo hoàng khuyên rằng “những chữ nầy chứa đựng một sức mạnh lớn lao, có thể bảo vệ gia đình trước hàng ngàn khó khăn, thử thách. Thiếu chúng, rạn nứt có thể mở rộng ra và dẫn đến đổ vỡ”.
Để chinh phục tấm lòng của người khác, dù họ là ai, thuộc về thành phần nào, chúng ta cũng cần có thái độ tế nhị, đem lại lòng tin và sự tôn trọng lẫn nhau. Điều đáng tiếc là trong khi nhân loại ngày càng tiến đến nền văn minh tột bực, thì con người lại cư xử với nhau cách khô khan, ngôn ngữ nghèo nàn, khó nghe. Họ tưởng rằng khi thốt lên những chữ “vui lòng”, “cảm ơn” hay “xin lỗi” sẽ tỏ ra mình nhu nhược, thiếu bản lãnh, dấu hiệu của sự yếu đuối. Nhưng thật ra phẩm giá của con người thể hiện khi biết xử dụng những từ ngữ đáng yêu đó. Một người không biết nói xin lỗi cũng không biết tha thứ. Mà không tha thứ nghĩa là không cảm nhận sự an bình và hạnh phúc trong tâm.
Có người nhận xét ngày nay chúng ta có rất nhiều tiện nghi cho cuộc sống, nhưng trên gương mặt lại thiếu vắng nụ cười. Những lo nghĩ, bon chen, hơn thua hằng ngày để đáp ứng với nhu cầu, theo kịp trào lưu xã hội khiến ta rơi vào chứng trầm cảm mà mình không biết, khiến cho sắc diện cứ luôn căng thẳng, nụ cười tắt lịm trên môi. Các nhà tâm lý giải thích rằng khi chúng ta cười là lúc ta truyền đi thông điệp “Tôi hạnh phúc vì một điều nào đó”, trái lại nếu không cười, não bộ như nói lên “Tôi không cần phải hạnh phúc”. Và bạn sẽ ngạc nhiên khi biết rằng mỗi lần thốt lên ba chữ “vui lòng, xin lỗi hay cảm ơn” thường có một nụ cười kèm theo lời nói đó.

Hai ngàn năm trước, sứ đồ Phao-lô nhắn nhủ: “Lời nói anh em phải có ân hậu theo luôn, và nêm thêm muối” (Cô-lô-se 4:6). Thật là một lời khuyên đơn sơ mà đầy ý nghĩa!

Saturday, 18 July 2015

HƯỚNG VỀ THIÊN PHỤ

II Sử Ký 20:3 “Giô-sa-phát sợ hãi, quyết định tìm kiếm Chúa...”
Mỗi chúng ta đều đã từng đối diện với những thử thách trong cuộc đời. Khó khăn về tài chánh, nghề nghiệp, sức khỏe, con cái, vợ chồng v.v... Dường như không ai tránh khỏi. Nhưng rất may, chúng ta phụng sự Chúa là Đấng quan phòng, hằng lưu tâm, chăm sóc.
Chẳng những cá nhân mà Hội Thánh khắp nơi cũng nhiều lúc đối đầu với phong ba. Khi thử thách kéo đến, chúng ta đặt tấm lòng của mình vào đâu để tìm thấy an bình? Giô-sa-phát, vua nước Giu-đa, cho chúng ta một bài học quý giá.
II Sử-ký đoạn 20 ghi lại chuyện dân Mô-áp, dân Am-môn và dân Sê-ni-rơ đem đại quân tấn công Giô-sa-phát. Họ tiến đến, vây hãm như một bầy kiến. Nhà lãnh đạo nào ở trong hoàn cảnh đó cũng phải cuống cuồng tìm phương đối phó. Nhưng Giô-sa-phát là vị vua khôn ngoan. Dẫu rất sợ hãi, nhưng thay vì giàn trận đối đầu với kẻ thù, ông trước hết “quyết định tìm kiếm Chúa” và rao báo sự kiêng ăn trong cả nước.
Tự trong sâu thẳm của tấm lòng, Giô-sa-phát nhận biết rằng Chúa của ông vĩ đại hơn bất cứ nan đề nào trong trần thế. Ngài đã thực hiện biết bao việc lạ lùng cho Áp-ra-ham, Môi-se, Đa-vít, thì cũng chính Đức Chúa Trời đó sẽ giúp đỡ mình trong giờ phút hiểm nguy. Với niềm tin vững chắc, ông hạ mình nương nhờ cánh tay năng quyền của Ngài, để rồi từ cuộc chiến của riêng ông, của riêng dân sự Giu-đa, đã trở thành “cuộc chiến tranh của Chúa” với kẻ thù đang chờ đợi ngoài kia. Và phép lạ kỳ vĩ đã xảy ra với một chiến thắng lẫy lừng!

Xin đừng bao giờ xem nhẹ mối quan tâm của Ngài với những nan đề của chúng ta. Ngày xưa Ngài đã giúp đỡ tổ phụ đức tin như thế nào, thì ngày nay Ngài sẽ cứu vớt con dân Ngài như vậy. Nỗi ưu tư của chúng ta cũng là nỗi ưu tư của Chúa. Nếu chúng ta biết hạ mình như Giô-sa-phát, hướng lòng về Ngài,  nương cậy nơi quyền năng siêu việt đó, Ngài sẽ đáp ứng. Thử thách càng to lớn thì lại càng thấy cánh tay Ngài mạnh mẽ dường bao!

BÌNH AN, VUI MỪNG VÀ THỎA NGUYỆN

Nê-hê-mi 2:1-8
Thất vọng, bi quan có thể cướp mất bình an, vui mừng và thỏa nguyện. Khi bạn cảm thấy nặng lòng, buồn bã, đừng bao giờ đánh mất niềm tin nơi cuộc sống.
Tôi biết có người trải qua cảnh ngộ bi đát nhất. Nhưng rồi một vài năm sau gặp lại thấy tốt đẹp hơn, tâm trạng tươi sáng hơn. Tại sao vậy? Bởi họ không chịu khuất phục. Thay vì ngồi đó gậm nhấm nỗi đau, họ chọn nương dựa vào Chúa, bước ra với niềm tin và vượt lên khỏi cảm xúc ưu phiền.
Nê-hê-mi là một thí dụ rất rõ nét. Ông có nhiều lý do để phiền muộn. Dân sự đang ở trong hoàn cảnh cực kỳ khó khăn. Sau khi nhận tin rằng những tường thành Giê-ru-sa-lem bị tàn phá, người của Đức Chúa Trời ngã gục trong nỗi thất vọng và buồn bã. Thế nhưng, dầu nỗi đau tràn ngập tâm hồn, ông không để mình bị chôn vùi trong chốn thấp hèn. Nê-hê-mi kêu cầu cùng Chúa, tìm kiếm sự hướng dẫn từ nơi Ngài.
Chúa đáp ứng lời khẩn xin của Nê-hê-mi bằng quyền năng lạ lùng. Ngài như một vị vua nhìn thấy thần dân của mình đau đớn, bèn hạ mình làm tất cả những gì có thể làm để giúp đỡ kẻ bề tôi. Phép lạ nầy đã dẫn dắt họ xây dựng lại tường thành và cứu vớt dân sự Ngài.
Thiên Chúa Từ Ái có thể giải thoát chúng ta từ cảnh ngộ bất khả thi và dẫn ta vào đường lối diệu kỳ mà lòng mình không tưởng nổi.

Bạn đang sống với niềm kỳ vọng nơi quyền năng thiên thượng? Hay bạn đang chìm sâu vào nỗi bi quan? Hãy bắt chước Nê-hê-mi, xoay nỗi thất vọng vào sự giúp đỡ của Chúa. Ngài sẽ tái tạo niềm tin, xóa bỏ mặc cảm và phục hồi sức sống cho cuộc đời.

Thursday, 2 July 2015

CHỌN LỰA ĐÚNG VẬT LIỆU

I Cô-rinh-tô 3:12-15 “Công việc của mỗi người đáng giá nào, lửa sẽ chỉ ra”
Người tin Chúa xây dựng đời sống trên Vầng Đá Của Mọi Thời Đại là Chúa Giê-xu Christ. Mỗi động cơ, mỗi việc làm, và mỗi lời nói là vật liệu để xây căn nhà thuộc linh. Sứ đồ Phao-lô cảnh cáo họ phải xây dựng cách cẩn thận bởi vì trong ngày đoán xét lửa sẽ thử nghiệm phẩm chất công việc của mỗi người. Đây không phải chỉ là lửa thường mà là thanh tẩy trước hiện diện của Chúa Giê-xu.
Khi chúng ta ứng hầu trước ngôi thánh khiết và công bình tuyệt đối của Cứu Chúa, tất cả những gỗ mục, cỏ khô, rơm rạ trong đời sống sẽ biến mất. Những việc nhơn đức đã làm với động lực sai lầm, ích kỷ sẽ bày ra cùng với tội lỗi và thái độ bất chính. Chỉ có những gì thực hiện trong danh Giê-xu tồn tại mà thôi. Và ngay lúc các vật vô nghĩa tan biến, chúng ta sẽ nhận ra rằng Thiên Chúa là công minh, bởi vì những thứ đó không thích hợp cho cuộc đời của con cái Ngài.
Nói như thế có thể một vài người nghĩ “Được lên thiên đàng là đủ rồi, đòi hỏi chi nữa!”. Nhưng hãy nhớ sự xét đoán dành cho tín đồ là để khen thưởng. Trong thí dụ về người quản gia bất trung, Chúa Giê-xu giải thích cho môn đệ Ngài một khái niệm căn bản: “Ai trung tín trong việc rất nhỏ cũng trung tín trong việc lớn” (Lu-ca 16:10). Năm tháng của chúng ta trên trần thế là khởi đầu của sự phục vụ và vui mừng đời đời trong Chúa. Đức Chúa Trời sẽ ban thưởng cho chúng ta bằng trách nhiệm thiên thượng tùy theo lòng trung kiên của chúng ta trên đất nầy.

Người khôn ngoan biết dự tính cho tương lai (Châm Ngôn 27:12). Để nhận được nhiều sự ban cho mà Ngài đã hứa, chúng ta phải tận tâm xây dựng bằng những vật liệu vững chắc và có chất lượng cao nhất. Đặc ân được phục vụ là khởi đầu của những phần thưởng. Trên thiên quốc, sự ban cho của Đức Chúa Trời sẽ càng bội phần hơn.