Sunday, 27 August 2017

MỘT NƠI ĐÁNG SỐNG

Thủ phủ Melbourne lại được danh hiệu là nơi đáng sống nhất trên thế giới. Đây là lần thứ 7 thành phố nầy được bình chọn đứng đầu liên tục suốt bảy năm qua, nhờ vào môi trường sống tốt đẹp, không khí trong lành, an ninh bảo đảm, nhiều công viên xin tươi và bảo tồn những công trình cổ bên cạnh nhiều tòa nhà hiện đại. Ngoài ra những yếu tố khác như hệ thống y tế, giao thông, giáo dục đều đạt điểm cao và tỉ lệ tội phạm giảm thấp.
Trên bảng điểm tối đa 100 thì Melbourne đã đạt được 97.5. Những lãnh vực như y tế, giáo dục và cơ sở hạ tầng đều giành điểm toàn hảo 100 trên 100 và những lãnh vực khác như sự ổn định đời sống, nếp văn hóa và môi trường trong sạch cũng được cho điểm gần như tuyệt đối.
Mười thành phố đầu bảng gồm có: Melbourne, Vienna, Vancouver, Toronto, Calgary, Adelaide, Perth, Auckland, Helsinki và Hamburg. Trong khi đó, Sydney năm rồi ở hạng 7 đã rơi xuống hạng 11 vì giá nhà quá cao và nguy cơ khủng bố gia tăng. Dầu vậy nói chung những thành phố tại Úc đều có thứ hạng rất cao trong 140 thành phố lớn trên thế giới.
Ông thị trưởng Robert Doyle vui mừng cho biết sẽ dùng cơ hội quý hiếm nầy để quảng bá ngành du lịch Melbourne. Còn thủ hiến Daniel Andrews tuyên bố đây là một hãnh diện chung cho toàn dân tiểu bang Victoria đã đóng góp tích cực để biến nơi đây trở thành chỗ sống tốt đẹp nhất hoàn vũ. Ông cũng không quên nhắc nhở mọi người cố gắng nhiều hơn nữa để gìn giữ và phát huy những nét cao đẹp của vùng đất tốt lành, đáng sống.
Là con dân thiên quốc, chẳng những chúng ta vui mừng với thành quả Melbourne đã đạt được, nhưng cũng đừng quên rằng đôi mắt đức tin còn hướng đến một “quê hương tốt hơn” ở trên trời, nơi đó sẽ không còn than khóc, phiền muộn, cay đắng, một nơi vinh hiển mà mỗi con dân Chúa ngắm nhìn sự hiện diện thánh khiết và yêu thương của Ngài.

“Nhưng họ ham mến một quê hương tốt hơn, tức là quê hương ở trên trời; nên Đức Chúa Trời không hổ thẹn mà xưng mình là Đức Chúa Trời của họ, vì Ngài đã sắm sẵn cho họ một thành” (Hê-bơ-rơ 11:16).

Wednesday, 16 August 2017

GIẤC MỘNG HOÀNG LƯƠNG

Vào thời nhà Đường bên Trung quốc, có một chàng học trò tên là Lư Sinh, đi thi nhiều lần không đỗ. Chàng cho mình không gặp thời nên lấy làm chán nản. Hôm nọ Lư Sinh đến ngồi uống trà tại lữ quán, gặp một vị đạo sĩ. Trong lúc đàm đạo, chờ chủ quán nấu nồi cơm bắp, chàng kể cho đạo sĩ chuyện mình không may trên đường hoạn lộ.

Lúc sau, vì mệt mỏi, Lư Sinh ngủ gật. Đạo sĩ lấy trong túi ra một chiếc gối bằng gốm đưa cho chàng và nói: “Cho anh mượn tạm để gối đầu mà ngủ”. Lư Sinh ngủ vùi và thấy một giấc mơ. Anh thấy mình được một phú ông giàu có mời vào nhà, đãi đằng nồng hậu, rồi gả con gái cho. Sau khi cưới vợ, anh đi thi và đậu trạng nguyên, được cử làm tể tướng. Nhưng sau đó gặp phải chuyện phiền phức, bị giáng xuống làm tri huyện. Ba năm sau lại được triệu hồi về kinh phục chức tể tướng. Đang ở trên đỉnh cao danh vọng, anh lại bị người ta vu khống, bị tù ngục. Bấy giờ anh nói với vợ: “Nhớ khi xưa, lúc còn hàn vi, ta mặc áo vải lang thang, tuy nghèo khổ nhưng được tự do, ăn rau mắm cũng ngon, ngủ giường tre cũng yên giấc, bây giờ có chức có quyền nhưng cuộc đời sao mãi phiền muộn, lo âu”. Sau đó, dù được phục chức, nhưng buồn rầu mà chết. Ngay lúc thấy mình xuôi tay nhắm mắt, Lư Sinh bỗng choàng tỉnh giấc, mới biết đó chỉ là một giấc mơ. Nồi cơm ngô ông chủ nấu nghe mùi thơm phức, nhưng vẫn còn chưa chín tới.

Lư Sinh mừng rỡ thốt lên: “Ôi, chỉ là một giấc mơ”. Bấy giờ vị đạo sĩ mới nói: “Con ạ, đời người vốn chỉ là một giấc mộng!”. Về sau, người ta kể lại câu chuyện nầy và gọi là “giấc mộng hoàng lương”  nói lên cuộc đời đầy dẫy ưu phiền, phù du, tạm bợ,  chỉ như thời gian nấu một nồi cơm ngô.

Là thôi! Tỉnh giấc kê vàng,
Mới hay muôn sự thảy toàn hư không. 



Trước giả Thánh Kinh Gia-cơ nêu lên sự thật của đời người: “Anh chị em không biết ngày mai sẽ ra thể nào, hoặc cuộc đời mình rồi đây sẽ ra sao, vì anh chị em chỉ là hơi nước, hiện ra trong chốc lát, rồi lại tan ngay”. Và rồi ông để lại lời khuyên: “Thay vào đó, anh chị em nên nói: Nếu Chúa muốn, chúng tôi sẽ sống và làm việc nọ việc kia” (Gia-cơ 4:14-15 –Bản dịch 2011)

Saturday, 5 August 2017

CAO TUỔI HAY GIÀ?

Đến tuổi về hưu, một số người cho mình đã “già”. Và vì bởi tâm trạng đó có khi chúng ta tự cảm thấy mình vô dụng. Nhưng xin hãy nghĩ lại: bởi vì cao tuổi khác với già!
* Trong khi người cao tuổi chơi thể thao, khám phá, đi du lịch; thì người già chỉ thích nghỉ ngơi.
* Trong khi người cao tuổi có tình yêu để cho đi, thì người già lại tích lũy lòng ganh tỵ và hờn giận.
* Trong khi người cao tuổi có những dự tính cho tương lai của mình, thì người già luôn luyến tiếc quá khứ.
* Trong quyển nhật ký của người cao tuổi gồm toàn là những “ngày mai”, thì quyển nhật ký của người già chất chứa những “ngày hôm qua”.
* Trong khi người cao tuổi thích những ngày sẽ tới, thì người già đau buồn với tháng ngày ít ỏi còn lại của mình.
Có thể chúng ta cao tuổi, nhưng chúng ta không muốn già, bởi chúng ta có lắm tình yêu để cho đi, lắm dự tính để thực hiện, lắm thứ để làm! Người cao tuổi còn có kế hoạch cho tương lai, có tình yêu nồng nàn sẵn sàng ban tặng.

Thánh Kinh cho chúng ta một bài học quý giá từ một người cao tuổi nhưng thể chất và tâm hồn luôn sung mãn, sống động. Ở tuổi 85, ông đã tình nguyện làm một viên tướng chỉ huy để đối đầu với đoàn quân khổng lồ, tinh nhuệ đang trấn giữ thành quách kiên cố trên đỉnh núi Hô-rếp. Bởi lòng nương cậy nơi sức mạnh quyền năng của Thiên Chúa, ông đã chiến thắng kẻ thù, đem lại an bình cho dân tộc. Viên đại tướng oai dũng đó chính là Ca-lép, người đã sống suốt quãng đời cho sự tồn vong của đất nước. Ông nói: “Ngày nay tôi được 85 tuổi, vẫn còn mạnh khỏe, còn sức đặng đi đánh giặc hoặc vào ra. Vậy hãy cho tôi núi nầy. Đức Giê-hô-va sẽ ở cùng tôi, và tôi sẽ đuổi chúng nó đi như Ngài đã phán” (Giô-suê 14:10-12)

CHẾT PHƯỚC HẠNH

“Từ rày phước thay cho những người chết là người chết trong Chúa” (Khải Huyền 14:13)
Thứ Bảy vừa qua, Bà Doris Fletcher, một trong những vị ân nhân lớn của cộng đồng người Việt đã qua đời một cách bình an.
Nhiều đồng hương từ các trại tị nạn đến định cư tại Melbourne trong những năm 1978 đến 1984 đã từng được giúp đỡ bởi người phụ nữ nhân ái nầy. Bà sống độc thân, tận hiến cả cuộc đời cho công việc Chúa để cứu giúp những người khốn khổ. Bà đã bảo trợ trên 200 gia đình Việt, Miên, Lào từ các trại tị nạn ở Thái Lan, Mã Lai, Indonesia đến định cư tại Úc. Bà cũng đã giúp hàng ngàn gia đình khi mới đến bằng các phương tiện như bàn ghế, giường tủ và những vật dụng trong nhà. Nhiều người gọi Bà bằng danh xưng “Mom Fletcher”. Ngay trong nhà, Bà cũng đã nhận nuôi bốn trẻ em mồ côi, lo từng miếng ăn, giấc ngủ và chuyện học hành.
Tôi vẫn còn ghi trong tâm khảm những chuyến đi xin“second hand furniture” với Bà. Bà lái chiếc xe van cũ, bôn ba từ chỗ nầy đến chỗ khác để xin từng vật dụng cho đồng hương. Mỗi khi đến thăm một gia đình, Bà nhỏ nhẹ hỏi và ghi nhớ họ cần thứ gì, để rồi vài hôm sau Bà lại đến, dầu là đồ cũ nhưng không thiếu những gì mà gia đình cầu hỏi. Bà không hiểu tiếng Việt, nhưng đọc được trên gương mặt, ánh mắt của từng người thứ mà họ cần đến. Đi với Bà, chúng tôi tự bắt buộc phải chịu khó, kiên nhẫn và luôn luôn hát Thánh Ca dù phải khiên vác mệt đứt hơi. Điều lạ lùng và gây ảnh hưởng nhất từ nơi Bà, là nụ cười luôn ở trên môi và ánh mắt luôn tỏ ra trìu mến, ngay cả khi những món đồ Bà cho bị lạnh lùng từ khước. Đến bây giờ, ánh mắt đó vẫn còn ở trong tiềm thức của riêng tôi.
Mới đây, khi vào thăm Bà tại viện dưỡng lão, dù năm tháng có làm tàn phai, dung mạo và trí óc bị sa sút bởi thời gian, nhưng chúng tôi vẫn còn đọc được nơi Bà niềm thương mến chân tình như người Mẹ đối với con cái, dù chúng có thờ ơ lạnh nhạt, hay lầm đường lạc lối. Ờ nơi Bà, chúng tôi nhìn thấy hình ảnh nhơn từ, thương xót của Chúa Giê-xu rõ nét và sống động nhất. Không phải bằng lời nói, mà là tận nơi trái tim vĩ đại của một môn đồ chân thật của Chúa.

Tôi biết Bà đã chết phước hạnh. Tôi biết chính Chúa Giê-xu đón tiếp Bà với lời khen ngợi: “Hỡi đầy tớ ngay lành trung tín kia, được lắm! Hãy đến hưởng sự vui mừng của Chúa ngươi” (Ma-thi-ơ 25:23)