Tuesday, 12 February 2019

MÊ CỜ



Trên vỉa hè Sài-gòn hôm nọ có hai kỳ thủ say mê đấu trí một ván cờ gay cấn. Thình lình họ nghe tiếng kèn đám tang của ai đó đi ngang qua. Một trong hai người buông cờ đứng dậy ngã nón đứng nghiêm mặc niệm với thái độ buồn bã, thương tiếc. Người kia rất đỗi ngạc nhiên.  Khi đám tang đi khuất, liền nói: Tôi chơi cờ với ông rất lâu nhưng chưa hề biết ông là người có đạo nghĩa với những người chết như vậy. Ông trả lời: Hôm nay là đám tang của vợ tôi nhưng ghiền cờ quá, ra đánh với ông vài ván. Tôi với bả sống với nhau hơn 40 năm, nên tỏ một chút lòng thành.
Mê cờ đến nỗi không ở nhà lo đám tang của vợ xưa nay hiếm thấy. Dĩ nhiên đây chỉ là một câu chuyện chọc cười thiên hạ và châm biếm mấy tay ghiền cờ tướng nặng. Nhưng biết bao lần trong đời, vì mãi mê hơn thua trên mặt trận cờ mà chúng ta bỏ bê gia đình, xao lãng việc làm ăn và trốn tránh trách nhiệm với cộng đồng xã hội.
Chuyến đi Adelaide tham dự Giải Cờ lần nầy đoàn Melbourne chúng tôi được đón tiếp rất chu đáo, nhiệt tình. Chiều thứ Bảy anh em hân hạnh dự một bữa cơm chay có ca nhạc do gia đình Ông Ngô Ngân khoản đãi tại chùa A-di-đà. Hôm đó chúng tôi còn có diễm phúc diện kiến sư thầy Thích Hạnh Châu để được đàm đạo và giải đáp những thắc mắc trong giáo lý huyền diệu của nhà Phật. Giữa khoảnh khắc thiêng liêng tĩnh mịch đó, bỗng dưng quá khứ hiện về rõ từng nét một khiến tôi phải cầm bút viết lên những dòng chữ nầy như một lời tâm sự.
Khi tôi còn là cậu bé 6, 7 tuổi, trong gia đình có hai người cô là những phật tử thuần thành. Mặc dù không thường đi chùa, nhưng khi hai cô đem những bài kinh tụng về, tôi thích thú đọc và thuộc lòng từng chữ một. Hai cô ngạc nhiên lắm, thường đùa với cha tôi: Chắc thằng bé sau nầy làm thầy chùa quá anh Hai ạ! Lớn lên một chút, cha con tôi vào sinh sống tại Sài-gòn. Lúc ấy thân sinh của tôi đã trở thành một tín đồ Cơ-đốc-giáo và tôi thường đi lễ ở nhà thờ, cũng học thuộc lòng nhiều phần trong Kinh Thánh, nhưng trong tâm trí tôi vẫn nhớ nằm lòng những bài kinh Phật.
Khi tôi vào lớp Nhất, chuẩn bị thi vào trường trung học công lập Hồ Ngọc Cẩn, trong lớp có một anh tu sĩ Phật giáo lớn hơn chúng tôi nhiều tuổi nhưng học chung. Tôi và anh cùng đi con đường từ trường về nhà nên sớm trở thành đôi bạn chí thân. Nhiều hôm tôi được ở lại chùa ăn cơm chay với anh, lấy làm thích lắm. Khi biết tôi thuộc nhiều câu kinh kệ, anh càng quý mến tôi hơn. Cuối năm anh không thi đậu nên chúng tôi đành chia tay, mỗi người theo học một nơi khác. Trước khi từ giã anh nói: Ngày mai em trở lại chùa anh sẽ có một món quà tinh thần đặc biệt cho em. Không để tôi thắc mắc, anh nói món quà đó là anh sẽ xin cho tôi được diện kiến sư phụ chủ trì, một đại đức đã giáo huấn anh nhiều năm qua. Tôi hiểu tâm ý tốt lành của anh, người có tấm lòng từ bi độ lượng và với tình bạn thân thiết, anh muốn tôi vào chùa, mặc áo nâu sồng, trở thành người bạn đồng môn.
Hôm sau, tôi chuẩn bị chỉnh tề đến chùa như đã hẹn. Khi vào phòng khách chúng tôi thấy sư thầy đang đánh cờ với một người khác. Anh bạn của tôi chắp tay thưa: Bạch thầy, hôm nay con dẫn em T. đến xin thầy chỉ dạy. Thầy nói: Ờ được, con ngồi đây chờ thầy một lát. Bạn tôi vẫy tay bảo tôi ngồi xuống ghế, còn anh ra bên ngoài. Tôi chờ cho đến khi thầy xong ván cờ. Nhưng rồi thầy vẫn chưa nói chuyện với tôi mà bày cờ lại đánh tiếp. Ván cờ kéo dài rất lâu, tôi thì cứ ngồi đó, hai người vẫn say đắm hơn thua từng nước một. Tôi nghĩ lúc ấy thầy đã quên mất rằng có một cậu bé đang đợi. Chờ mãi đến khi mệt mỏi, tôi xin thầy ra sân một chút. Thầy nói: Ờ, con ra ngoài chờ, khi nào xong ta sẽ gọi con. Nhưng rồi đến sẫm tối, tôi vẫn không nghe thầy gọi. Sau nầy tôi mới biết hôm đó thầy cứ thua mãi nên cố đánh để gỡ lại mà đành lỡ hẹn. Bây giờ nghĩ lại, biết đâu nếu thầy ngừng bàn cờ, bỏ thì giờ trò chuyện với tôi, cuộc đời tôi đã đổi khác, tốt đẹp hơn nhiều. Tôi vẫn còn tiếc mãi, nhất là anh bạn tốt của tôi lấy làm ái ngại lắm lắm! Cho đến từng tuổi nầy tôi vẫn ghi khắc trong tâm tình bằng hữu hiếm quý mà tôi có được với một người anh hiền từ, đức hạnh.
Cờ tướng có sức thu hút rất mạnh, khiến ta say đắm. Người muốn cao cờ phải có đam mê, phải chịu khổ công luyện tập, phải suy nghĩ chín chắn từng nước đi, từng thế cuộc. Đó là một môn thể thao trí tuệ mà những ai mong đạt đến đỉnh cao nghệ thuật cần phải trau giồi, tinh luyện. Nhưng cũng có khi vì niềm đam mê mãnh liệt đó khiến chúng ta đánh mất chính mình, bỏ lỡ những cơ hội quý báu giúp ích cho tha nhân, cho cuộc đời. Người chơi cờ nên biết cân bằng ưu tiên. Thực ra giá trị của gia đình, sự tiến bộ của bản thân, công việc làm ăn, trách nhiệm với dân tộc luôn luôn cao trọng hơn là sự thắng thua trên ván cờ nhỏ.
Biết được như thế ta mới hiểu thế nào là ứng dụng triết lý kỳ diệu của Cờ Tướng vào kiếp nhân sinh.

Lê Trần 12/2/2019.

Wednesday, 16 January 2019

GIÊ-XU, NGƯỜI BẠN THẬT


Có bao giờ Bạn thầm nghĩ mình không xứng đáng với tình yêu của Chúa? Những người thường đọc Thánh Kinh biết có nhiều chỗ ghi lại tấm lòng của Ngài đối với mỗi chúng ta. Hôm nay, tôi muốn chỉ ra cho Bạn một hình ảnh rất sống động về mối thân tình bằng hữu mà Chúa Giê-xu dành cho những ai theo bước chân Ngài.
Trong đêm cuối cùng trước khi bị bắt, bị xử án và chịu đóng đinh trên cây thập tự, trong vườn Ghết-sê-ma-nê Ngài đã dốc lòng cầu nguyện cho những môn đồ còn ở lại. Chính giờ phút quyết liệt đó, Giu-đa Ích-ca-ri-ốt dẫn quân lính đến bắt Ngài. Kẻ phản bội bước tới, đặt trên má Ngài một nụ hôn. Đó không phải là nụ hôn chào hỏi thâm tình, mà chỉ là một ám hiệu. Chúa Giê-xu đã phản ứng như thế nào? Sứ đồ Ma-thi-ơ ghi lại, Ngài đã gọi Giu-đa bằng một từ ngữ rất thân thương: “BẠN ƠI!” (Ma-thi-ơ 26:50).
Giu-đa mong đợi Chúa Giê-xu xây dựng vương quốc của Ngài, đánh đuổi thực dân La-mã ra khỏi xứ I-sơ-ra-ên. Đối với ông, Đấng có thể quở yên sóng gió bão bùng, thì hẳn cũng có đủ quyền bính để tiêu diệt kẻ thù. Rồi đây những môn đệ theo Ngài sẽ công thành danh toại. Ông nhắm đến lợi ích cá nhân và tiền đồ chính trị hơn là đời sống tâm linh. Sứ đồ Giăng không ngần ngại ghi lại rằng chính vì lòng tham đó, ông đã lợi dụng vai trò thủ quỹ để thò tay vào túi tiền của đoàn truyền giáo (12:6). Ngày nay người ta dùng tên của Giu-đa để ám chỉ những kẻ lừa thầy, phản bạn.
Thế mà, trước một Giu-đa tham lam, mù quáng, phản bội đó, Chúa Giê-xu cứ mãi yêu thương ông. Ngài vẫn dùng chữ “Bạn ơi!” như đã từng trò chuyện với ông suốt ba năm đồng hành trên con đường gió bụi. Ngài không đặt ra điều kiện, Ngài không nêu lên một mực thước nào cho những kẻ Ngài yêu mến. Ngài chỉ đơn giản quan tâm đến họ dù rằng họ đang ở trong tình trạng bi đát thế nào.
Loài người không thể với tới sự yêu thương và tình bạn của Chúa. Chính Ngài tự nguyện giơ tay ra để nối kết mối tương giao với loài người. Chúng ta không xứng đáng, nhưng chúng ta có đặc ân được sống trong tình yêu của Ngài. Chỉ ở trong Chúa chúng ta mới tìm thấy tình bằng hữu thật, còn “tríu mến hơn là anh em ruột” (Châm ngôn 18:24).

Thursday, 10 January 2019

ĐIỂM TÍN NHIỆM


Trung quốc dự tính đến năm 2020 sẽ hoàn tất việc xếp hạng 1 tỉ 300 triệu dân của họ. Tiêu chuẩn cho việc xếp hạng nầy là “điểm tín nhiệm xã hội”. Điểm tín nhiệm xã hội là gì? Đó là chỉ số điểm mà chính phủ Trung quốc công bố vào năm 2014. Họ yêu cầu mọi người công dân trong nước phải tôn trọng và làm theo ý muốn của cấp lãnh đạo. Câu phương ngôn được nhắc đi nhắc lại: “Giữ được lòng tin là vinh quang, làm mất lòng tin là sự hổ thẹn”.
Cho điểm mỗi người dân bằng cách nào? Ở Trung quốc hiện có 400 triệu máy thâu hình khắp hang cùng ngõ hẻm, hoạt động suốt 24 giờ mỗi ngày. Những máy nầy nhận diện từng người, ghi lại tất cả hành vi, gương mặt họ biểu lộ nơi công cộng, cách họ chi tiêu hằng ngày, nhất là thái độ của họ đối với nhà cầm quyền.
Gần đây chính quyền đã bắt đầu trừng phạt những người có điểm tín nhiệm xã hội thấp, bằng cách hạn chế việc đi lại, cấm mua vé những chuyến bay nội địa, không được ghi danh vào đại học. Con cái của những người nầy không được phép học ở các trường tư cao cấp. Người có điểm tín nhiệm xã hội thấp không được nhận làm việc công ty nhà nước và trong các ngân hàng. Một số người còn bị nêu tên vào danh sách đen như một biện pháp trừng phạt. Để tránh những hệ lụy đó, mọi người sống với gương mặt giả tạo, ưa chuộng bề ngoài hơn là sự tốt đẹp tâm hồn.
Chúa có theo dõi chúng ta không? Thi Thiên 139 chép: “Hỡi Đức Giê-hô-va, Ngài đã dò xét tôi, và biết tôi. Chúa biết khi tôi ngồi, lúc tôi đứng dậy; Từ xa Chúa hiểu biết ý tưởng tôi. Chúa xét nét nẻo đàng và sự nằm ngủ tôi, Quen biết các đường lối tôi. Vì lời chưa ở trên lưỡi tôi, Kìa, hỡi Đức Giê-hô-va, Ngài đã biết trọn hết rồi. Chúa bao phủ tôi phía sau và phía trước, Đặt tay Chúa trên mình tôi. Sự tri thức dường ấy, thật diệu kỳ quá cho tôi, Cao đến đổi tôi không với kịp! Tôi sẽ đi đâu xa Thần Chúa? Tôi sẽ trốn đâu khỏi mặt Chúa? Nếu tôi lên trời, Chúa ở tại đó, Ví tôi nằm dưới âm-phủ, kìa, Chúa cũng có ở đó. Nhược bằng tôi lấy cánh hừng đông, Bay qua ở tại cuối cùng biển, Tại đó tay Chúa cũng sẽ dẫn dắt tôi, Tay hữu Chúa sẽ nắm giữ tôi”. Vâng, Ngài dõi theo từng bước cuộc đời Bạn, nhưng không phải để kiểm soát hay lên án, mà là yêu thương, dạy dỗ, chăm sóc, an ủi và chở che.

Thursday, 3 January 2019

NGƯ ÔNG VÀ BIỂN CẢ


Văn hào Ernest Hemingway sinh năm 1899, tự kết liễu đời mình vào năm 1961. Ông để lại nhiều áng văn bất hủ, trong đó có một tiểu thuyết ngắn mà mỗi khi nhắc đến ông người ta đều phải nhớ, đó là quyển “Ngư Ông và Biển Cả”.
Nhân vật chính của câu chuyện là một lão ngư phủ người Cu-ba. Giữa biển khơi, suốt ba ngày đêm ròng rã, ông đã chiến đấu để vật lộn với một con cá kiềm khổng lổ khi nó mắc câu. Sang đến ngày thứ ba, ông dùng lao đâm chết con cá, buộc nó bên mạng thuyền và lôi vào bờ.
Dọc đường, đàn cá mập đánh hơi được, đã xông tới tấn công như vũ bão. Với một cố gắng phi thường, ông lão giết chết nhiều con cá mập để bảo vệ chiến lợi phẩm của mình. Nhưng khi về tới bến, ông nhận ra rằng con cá kiềm mà ông tốn bao công sức gìn giữ đã bị đàn cá mập rỉa hết thịt, chỉ còn trơ lại một bộ xương.
Chiến đấu cho đến cuối cùng mà chẳng được gì cả, nhất là hình ảnh đơn độc của lão ngư phủ giữa biển khơi giúp người ta hiểu được phần nào nỗi cô đơn của văn hào Hemingway để giải thích vì sao ông tự kết liễu đời mình bằng một viên đạn bắn vào đầu. Con người tìm đến cái chết khi không còn đủ sức chịu đựng nỗi cô đơn. Trong cơn bỉ cực, chết là một con đường giải thoát.
Nhưng cuộc chiến đấu tới cùng của lão ông cho chúng ta thấy sự vĩ đại của bản năng loài người. Có khi chỉ một mình giữa trùng trùng biển động, con người dám lội ngược dòng, vượt lên nỗi sợ hãi thường tình để tìm đến bến bờ. Sống giữa xã hội đảo điên cũng thế. Biết bao anh hùng, liệt nữ một mình chống chọi với thế lực thấp hèn, dám sống theo lương tri lẽ phải, cung hiến cuộc đời cho lợi ích tha nhân. Cuộc chiến đấu của họ lắm khi rất cô đơn, nhưng với niềm tin mãnh liệt, họ biết mình cuối cùng rồi sẽ về đâu.
Thánh Kinh mô tả những con người vượt trội đó bằng lời văn trác tuyệt: “Hết thảy những người đó đều đã chết trong đức tin, chưa nhận lãnh những điều đã hứa cho mình, chỉn trông thấy và chào mừng những điều ấy từ đằng xa, xưng mình là khách và bộ hành trên đất. Họ ham mến một quê hương tốt hơn, là quê hương ở trên trời, nên Đức Chúa Trời không hổ thẹn mà xưng mình là Đức Chúa Trời của họ”. Hê-bơ-rơ 11:13-16.