Tuesday, 28 November 2023

NGƯỜI NHẬT NGỦ GẬT

 

NGƯỜI NHẬT NGỦ GẬT

Sa-lô-môn, vị vua được xem là khôn ngoan nhất của người Do Thái có lời khuyên rằng: ‘Ngủ một chút thôi, chợp mắt một chút thôi, khoanh tay nghỉ ngơi một chút thôi, thì sự nghèo khổ của con sẽ đến như tên cướp, và sự túng thiếu tới như người cầm vũ khí’ (Châm-ngôn 6:10-11). Nhưng khi đến du lịch ở Nhật Bản tôi thấy có rất nhiều người ngủ gật nơi công cộng. Họ không phải là những người vô gia cư, già yếu hay bệnh hoạn, mà là những công nhân, viên chức, sinh viên. Họ có thể ăn mặc rất lịch sự nhưng lại ngủ gục ở bất kỳ nơi đâu, trên xe lửa, công viên, quán cà phê hay ngay cả trong nơi làm việc. Thế mà nước Nhật vẫn giàu có, sung túc, an bình. Tôi suy nghĩ mãi về câu Thánh Kinh ở trên so với hiện tình nước Nhật và tự hỏi có gì mâu thuẫn chăng?

Nhiều du khách đến Nhật lấy làm ngạc nhiên khi thấy người dân ở đây cứ hồn nhiên gục đầu vào giấc ngủ năm mười phút, rồi sau đó thản nhiên tiếp tục công việc không chút thẹn thùng. Những người xung quanh dường như cũng đồng tình với chuyện ai đó gật gù, dù trong văn phòng, nhà hàng hay cầu thang máy. Đối với họ là chuyện thường tình, quen thuộc cho đến nỗi trong ngôn ngữ ở đây có một danh từ riêng để chỉ việc ngủ gục, chữ inemuri. Nemuri trong tiếng Nhật nghĩa là ngủ. Inemuri là không ngủ. Vậy Inemuri nghĩa là ‘ngủ mà không ngủ’. Có người dịch sang tiếng Việt ‘nhắm mắt để đó’. Bà Brigitte Steger viết một luận án tiến sĩ về chuyện ngủ gật của người Nhật, đã khẳng định ‘Người Nhật không xem inemuri là ngủ. Nó khác với giấc ngủ trên giường vào ban đêm hay một giấc ngủ trưa. Đó chỉ là chợp mắt chốc lát để lấy lại năng lực tiếp tục công việc dang dở, như sạc bin cho bộ máy tiếp tục chạy đều’.

Nước Nhật bại trận trong Thế Chiến Thứ Hai, phải đầu hàng nhục nhã. Đất nước hầu như phá sản, kinh tế thảm hại. Thế mà chỉ sau hơn một thập niên, họ đã động viên toàn thể dân chúng cần cù làm việc, tạo nên một phép màu phồn thịnh khiến thế giới kinh ngạc, nể phục. Khắp nơi trên địa cầu đều dùng sản phẩm của họ. Từ chỗ cùng cực khốn khổ, họ vươn mình lên trong sự giàu có, đứng vào một trong những nước thịnh vượng nhất của hoàn vũ. Mọi người lao vào công việc, bất kể giờ giấc. Thống kê cho biết mỗi đêm người dân Nhật ngủ ít hơn mọi người trên thế giới 45 phút. Vì thế họ thường xuyên thiếu ngủ nên lợi dụng mọi phút giây chợp mắt một chút là chuyện thường tình.

Vừa làm vừa ngủ ở đâu cũng gặp rắc rối, có thể bị cảnh cáo, bị cho nghỉ việc. Nhưng trái lại ở Nhật, giới chủ nhân lại khuyến khích nhân viên của mình duy trì thói quen nầy. Họ thấy rằng sau khi chợp mắt ít phút, công việc được làm tốt hơn, năng xuất cao hơn. Bởi vì người Nhật thường ở trong công sở 10 tiếng đồng hồ mỗi ngày, cho nên khi quá đỗi mệt mỏi, họ Inemuri ‘biến mất một chốc’, rồi sau đó trở lại làm việc kết quả nhiều hơn. Dân ở đây thường nói ‘Tôi vẫn hiện diện trong lúc đang ngủ’ (I am present while sleeping). Ai cũng biết dân Nhật siêng năng, biết tự trọng và nhất là lòng yêu mến đất nước cao độ.

Trở lại với câu Thánh Kinh nêu trên, tôi không thấy lời khuyên dạy của vị vua khôn ngoan Sa-lô-môn với việc ngủ gục của người Nhật có gì là mâu thuẫn. Họ không chìm vào giấc ngủ vì lười biếng, mà vì quá chuyên tâm vào công việc đến nỗi không có đủ thì giờ để nghỉ ngơi. Họ yêu đất nước, tự hào là con cháu Thái Dương Thần Nữ, họ không muốn phải chịu nhục nhã một lần nữa! Cho nên thế giới thường gọi người Nhật ‘workaholic’, một dân tộc ‘nghiện làm việc’ là thế đó.

Lê Trần - 2023






 

Saturday, 25 November 2023

HÒA THƯỢNG THÍCH TUỆ SỸ

 

HÒA THƯỢNG THÍCH TUỆ SỸ

Tôi không biết nhiều về Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ, cũng chưa từng được người dạy bảo hay trực tiếp chuyện trò. Chẳng qua chỉ hội ngộ thoáng qua trong một dịp tình cờ. Nhưng với tính cách giao tiếp xuề xòa, trực tính của ông đã để lại trong tôi ấn tượng khó quên. Cho đến khi được tin ông bị kết án tử hình vì chủ trương lật đổ nhà cầm quyền, tôi mới dành nhiều thời gian hơn để tìm hiểu về con người kỳ diệu nầy. Hôm nay được tin Hòa thượng đã viên tịch, xin được viết lên đây vài hàng thô thiển để gọi là chút lòng thành nói lên tấm chân tình đối với một bậc tu hành đức cao trọng vọng mà tôi hằng kính mến.

Đại lão Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ là một thiên tài xuất chúng của Phật giáo Việt Nam. Người đã đóng góp rất nhiều cho nền giáo dục, cho việc kinh điển Phật học. Là một nhà giáo, một nhà nghiên cứu, dịch thuật và tác giả nhiều bộ sách, cũng là một nhà văn, nhà thơ, một bậc trí thức uyên thâm khó tìm người sánh được. Năng khiếu ngoại ngữ của ông rất đáng nể. Ông thông thạo tiếng Phạn, tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Hoa, tiếng Nhật, tiếng Đức và cả tiếng Nga.

Ông sinh năm 1943 tại Lào, nguyên quán tỉnh Quảng Bình nhưng trưởng thành tại miền Nam Việt Nam. Từng là giáo sư của đại học Vạn Hạnh từ khi còn rất trẻ. Sau năm 1975 ông không chịu tham gia vào Giáo hội Phật giáo Việt Nam do nhà cầm quyền thành lập. Rồi năm 1984 ông bị bắt về tội ‘hoạt động lật đổ chính quyền nhân dân’ vả bị kết án tử hình. Sau 4 năm tù đày, do áp lực của cộng đồng quốc tế, ông được trả tự do. Chức vụ cuối cùng của ông là chánh thư ký Viện Tăng Thống.

Người ta nói Hòa thượng Tuệ Sỹ là người ‘rất im lặng nhưng có nụ cười của bậc hiền giả’. Trong con người gầy gò đó có sức hút lớn với người đối diện. Dù là một tu sĩ nhưng ông giao tiếp bình dị với mọi người, dễ gần gủi. Ông cũng là một người trực tính, nghĩ sao nói vậy, không quanh co giả dối. Riêng trong lãnh vực văn chương, qua những ấn bản của đại học Vạn Hạnh, giới Phật giáo đều đồng ý rằng ông đã ‘làm sáng tỏ Phật giáo bằng ngôn ngữ hiện đại’ bởi tầm hiểu biết sâu sắc và đa dạng của một nhà trí thức.

Lúc 4 giờ chiều thứ Sáu 24 tháng 11 vừa qua, Hòa thượng Tuệ Sỹ viên tịch tại chùa Phật Ân, tỉnh Đồng Nai, hưởng thọ 81 tuổi. Là vị đại sư im lặng và kiên định với con đường mình đã chọn, dù phải trải qua sóng gió của thời thế, tù đày ngược đãi. Người đã từng cam kết với những kẻ cùng chí hướng với mình rằng ‘Nơi nào có hiểm nạn, tôi nguyện sẽ là chiếc cầu đưa lối. Nơi nào tối tăm, tôi nguyện sẽ là ngọn đuốc chiếu sáng. Nhẫn nhịn đời nhưng không để cho quyền lực đen tối của đời sai sử. Tùy thuận thế gian, nhưng không tự đánh chìm trong dòng xoáy ô trược của thế gian’.

Hôm nay, một tượng đài, một vị thầy lớn của Phật giáo ra đi, để lại bao tiếc thương cho nhiều thế hệ. Xin kính một lời đưa tiễn bậc tu hành, nhà hiền triết cao thượng tôi hằng ngưỡng mộ.

Lê Trần 2023.



Friday, 24 November 2023

50 TỈ CHO MÙA NÔ-ÊN

 

50 TỈ CHO MÙA NÔ-ÊN

Ngày 14 tháng 11, 2017, báo Herald Sun đăng bản tin cho biết dân chúng Úc chi ra 50 tỉ mua sắm trong dịp Lễ Giáng Sinh. Riêng tiểu bang Victoria tốn 12 tỉ 7. Với dân số 24 triệu rưỡi lúc đó, chia đều mỗi đầu người từ nhỏ đến lớn chi phí số tiền hơn $2000 cho việc mua quà Nô-ên.

Thực ra việc vung tay quá trán trong mùa đại lễ cũng rất cần cho kinh tế Úc. Bời vì hằng năm 60 phần trăm số lợi nhuận của các doanh nghiệp đều nhờ vào mùa ăn nên làm ra nầy. Bắt đầu từ tháng 11, các cửa hiệu đã sẵn sàng để chào đón khách hàng dạo phổ cho mùa vui trọng đại. Hơn phân nửa người Úc đã bắt đầu chọn lựa và đặt mua quà tặng cho người thân và bạn hữu.

Hội St Vincent de Paul cho biết: sau mỗi mùa Lễ Nô-ên, có tới một phần ba người Úc nhận những món quà họ không bao giờ xử dụng, rồi sau đó vứt đi. Họ nói: ‘Chúng tôi mong mọi người thực sự suy nghĩ những gì họ sẽ mua trong những ngày Giáng Sinh. Nếu họ vung tiền mua sắm những quà tặng không được dùng đến thì nên góp phần với những hội từ thiện để cứu giúp nhiều kẻ trong cơn cùng khốn, số tiền đó sẽ trở nên hữu ích nhiều hơn!’

Thực ra việc tặng quà cho nhau trong dịp vui mừng là điều rất tốt, nhưng cũng có rất nhiều quà tặng không cần tốn tiền mà lại là vô giá. Hãy cho nhau một nụ cười, một vòng tay thánh thiện, một lời chào thân ái, một câu chúc chân thành, nhứt là cho những người mà ta không thích, những người đem đến cho ta phiền muộn, đau đớn suốt năm qua. Hãy mang thông điệp của Mùa Đại Lễ đến với mọi người, như bài thánh ca thiên thần 2000 năm trước: Sáng danh Thiên Chúa trên các từng trời; hòa bình dười đất, ân sủng cho loài người”. Hòa Bình và Ân Sủng há chẳng phải là thứ mà ai cũng thiếu, ai cũng muốn nhận, ai cũng muốn trân quí hay sao?

Mua một món quà cho người ta yêu, ta thích, rất dễ. Nhưng mang tình thân ái, mối tương giao, lòng thứ tha độ lượng đến với mọi người -những người từng làm ta tổn thương- đòi hỏi nơi ta một bản lãnh cao thượng, một tấm lòng vị tha vĩ đại, một tâm hồn biết tôn thờ chân-thiện-mỹ lớn lao. Nếu không có sức mạnh siêu việt ban cho từ thiên thượng, thì mấy ai làm được những điều huyền diệu đó?

Lê Trần -2017

Tuesday, 21 November 2023

‘HỘI THÁNH ĐỨC CHÚA TRỜI MẸ’, HỌ LÀ AI?

 

‘HỘI THÁNH ĐỨC CHÚA TRỜI MẸ’, HỌ LÀ AI?

Hội Thánh của Đức Chúa Trời, còn gọi là Hội Thánh Đức Chúa Trời Mẹ là một phong trào tôn giáo mới bắt nguồn từ Đại Hàn, do ông Ahn Sahng-hong (đọc Anh Xang Hồng) sáng lập năm 1964, hiện nay đã có mặt trên 185 quốc gia. Những người gia nhập Hội Thánh nầy tin rằng Ahn Sahng-hong là Đức Chúa Trời Cha và Jang Gil-ja vợ của ông là Chúa Trời Mẹ. Họ có chí hướng mãnh liệt rằng giáo hội của mình đang khôi phục lại lẽ thật của hội thánh buổi sơ khai.

Năm 1997 giáo phái nầy lấy tên là Hội Thánh Của Đức Chúa Trời Hiệp Hội Tin Lành Thế Giới có chi nhánh khắp năm châu. Cho đến nay, chỉ sau hơn 50 năm thành lập với hơn 2 triệu tín đồ chính thức, 430 đoàn truyền giáo và 2500 hội thánh trên thế giới. Họ đã từng nhận giải thưởng từ các tổng thống Đại Hàn, tổng thống Barack Obama và nữ hoàng Anh Elizabeth về những đóng góp nhân đạo và phụng sự xã hội.

Người thành lập giáo phái Ahn Sahng-hong viết nhiều cuốn sách để giải thích rõ ràng rằng cộng đồng giáo hữu của họ phải làm theo tất cả mọi điều dạy dỗ của Đức Chúa Trời trong Kinh Thánh với niềm tin cả quyết rằng Đức Chúa Trời Cha và Đức Chúa Trời Mẹ đã hiện thân để khôi phục lẽ thật của Hội Thánh sơ khai. Chúa Giê-xu đã đến lần thứ hai trong thân xác con người và Ahn Sahng-hong chính là Chúa Giê-xu hiện thân lần thứ hai đó. Ông cũng tự nhận mình là Thánh Linh Đấng Yên Ủi. Họ xử dụng câu Kinh Thánh Khải Huyền 22:17 ‘Thánh Linh và Vợ Mới’ để củng cố niềm tin chính Jang Gil-ja là Đức Chúa Trời Mẹ.

Giáo hội nầy giữ ngày Sa-bát (thứ Bảy) làm ngày yên nghỉ. Họ cấm làm ra bất cứ hình tượng nào đặt trong nhà thờ, ngay cả thập tự giá. Đối với ho, tất cả loài người trên trái đất vốn là những thiên sứ ở trên trời. Những thiên sứ nầy đã phạm tội, bị đuổi xuống trần gian như một cơ hội thứ hai để được quay về thiên đàng. Cách duy nhất để được trở về là giữ lễ Vượt Qua của Giao Ước Mới và làm theo mọi điều Kinh Thánh dạy bởi sự soi dẫn của Ahn Sahng-hong là Chúa Cha và Jang Gil-ja là Chúa Trời Mẹ. Với đức tin nồng cháy, tín đồ của giáo phái nầy rất hăng say trong công việc truyền giáo. Họ gõ cửa từng nhà, đến các trung tâm thương mại, công viên, tiếp xúc với sinh viên đại học để chia xẻ Kinh Thánh và phổ biến giáo lý. Nhờ đó mà chỉ trong một thời gian ngắn, họ đã có mặt hầu như khắp nơi.

Ahn Sahng-hong sinh năm 1918 xuất thân trong một gia đình theo Phật giáo. Năm 30 tuổi ông gia nhập giáo hội Cơ Đốc Phục Lâm. Đến năm 1953 ông tuyên bố mình nhận được mặc khải từ trên cao để thành lập ‘Hội thánh của Đức Chúa Trời làm chứng cho Chúa Giê-xu’ hay ‘Hội Thánh Đức Chúa Trời Mẹ’. Ông bị giáo hội Cơ Đốc Phục Lâm khai trừ nên cùng với 23 người khác rời bỏ giáo hội, rồi ngày 28 tháng 4 năm 1964 thành lập ‘Hội Thánh Đức Chúa Trời Nhân Chứng Giê-xu’. Năm 1985, Ahn Sahng-hong chết, để lại quyền lãnh đạo giáo hội cho người vợ là ZahngGil-jah được biết đến như là Mẹ Thiên Thượng và Mục sư Hội trưởng Kim Joo-Cheol.

Tín đồ của họ giữ ngày Sa-bát nghiêm nhặt. Họ còn có những buổi học giáo lý gọi là Si-ôn. Họ dâng 1/10 mọi lợi tức, ngoài ra còn hiến tặng nhiều tiền cho những nhu cầu giáo hội. Các nữ tín đồ đội khăn trùm đầu khi dự lễ. Việc truyền giáo rất sốt sắng, nhắm vào các sinh viên đại học và thành phần trí thức giàu có trong xã hội. Mỗi tín đồ chính thức được cấp ‘mã số sự sống’ từ tổng hội ở Hàn quốc. Riêng những người có chức phận cao hơn còn có ‘thẻ thánh đồ điện tử’. Hàng ngày tín đồ của họ phải thực hành đầy đủ ba nghi lễ: lễ chuộc tội, lễ cảm tạ và lễ phụng sự. Khi thi hành những lễ nầy phải có sự dâng hiến tiền bạc rộng rãi với niềm tin rằng càng hiến tặng thì càng được nhiều phước hạnh. Ngoài ra, mỗi thứ Ba và thứ Bảy phải gác hết mọi việc để đến Si-ôn học Kinh Thánh, thờ phượng. Đây là những lễ đặc biệt, nếu không tham dự sẽ mất phước, ngày tận thế không được đón rước lên thiên đàng.