Friday, 23 December 2011

TÌM BẾN AN BÌNH


Cùng chung một tiếng tơ đồng, Người ngoài cười nụ người trong khóc thầm. Hai câu thơ trong Đoạn Trường Tân Thanh của Nguyễn Du cho thấy cùng đối diện một hoàn cảnh éo le, nhưng người thì ủ dột buồn thảm, người lại vui vẻ, hớn hở. Đó chẳng qua là hai người có trạng thái tâm lý khác nhau, tư tưởng khác nhau, tình cảnh khác nhau. Hay có thnói cái tâm của họ khác nhau.
 Văn hào Targore của Ấn-độ đã viết: “Lạy Thượng Đế con cúi đầu khẩn nguyện, Xin tận diệt trong con mọi biển lận tầm thường. Xin cho con sức mạnh của tình thương, Để gánh chịu mọi vui buồn ngược đãi”. Ông không cầu xin mình thoát khỏi những cảnh ngộ bi thương, mà chỉ xin cho mình sức mạnh để gánh chịu mọi vui buồn của kiếp sống. Đó là sức mạnh nội tâm, là thứ nội lực cần thiết cho cuộc đời.
Trước khi về trời Chúa Giê-xu để lại ba điều hệ trọng cho con dân Ngài: thứ nhứt: một mệnh lệnh “đi khắp thế gian giảng Tin Lành” (Mác 16:15), thứ hai: một điều răn “yêu thương lẫn nhau” (Giăng 13:34), và thứ ba: một di sản “Ta để sự bình an lại cho các con, Ta ban bình an Ta cho các con…Lòng các con chớ bối rối và đừng sợ hãi” (Giăng 14:27). Ngài không hứa đem ta ra khỏi cuộc đời ô trọc, Ngài không hứa cất hết những nhọc nhằn của kiếp nhân sinh. Ngài hứa để sự bình an thật trong lòng chúng ta. Những chữ “Lòng các con chớ bối rối và đừng sợ hãi” có thể hiểu là “Tâm các con hãy an bình, đừng rúng động”.
Nhưng làm thế nào để di sản đó hiện hữu trong mỗi chúng ta? Bí quyết nào cho sự an bình trong tâm như lời hứa của Ngài? Sau lời phán đó, Chúa Giê-xu đã cho chúng ta một chìa khóa: Bảy lần Ngài nhắc “hãy cứ ở trong Ta” như hình ảnh của nhánh nho dính vào gốc. Loài người đánh mất an bình vì tách ra khỏi mối tương giao với Thượng Đế, nguồn của sự bình an. Vậy thì chỉ khi nào ta quay lại, nối chặt mình vào Ngài, lập lại sự tương kết bền vững với Ngài, là lúc ta tìm lại sự an bình đã mất. Một động cơ nếu luôn nối liền với dòng điện chính, sẽ mãi có đủ năng lực cho sự vận hành.
Triết gia Pascal nói: “Con người là một cây sậy yếu ớt…”. Ta là ai mà đủ sức chống chọi với cuộc đời đầy thử thách. Ta là ai mà dám nói tự mình vượt thắng những phong ba? Tất cả triết học, tôn giáo chỉ nhằm vào một cứu cánh tìm kiếm an bình cho nhân thế. Bí quyết là cứ ở trong Ngài”!

Friday, 16 December 2011

TÂM BÌNH, THẾ GIỚI BÌNH


Đức Đạt Lai Lạt Ma dạy: ‘Tâm bình, thế giới bình’. Giữa cái tâm của con người và thế giới bên ngoài có một mối liên hệ gắn bó. Thế giới chung quanh ta hòa bình, vui vẻ khi nào trong nội tâm ta có hòa bình, vui vẻ. Tâm không bình, thế giới bình được sao?
Thi hào Nguyễn Du đã viết trong Truyện Kiều: “Người vui thì cảnh cũng vui, Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Cảnh và người như một bản hòa tấu, liên đới lẫn nhau. Ánh nắng mặt trời chói lọi, hoa tươi khoe sắc, chim bay bướm liệng cũng không phải là vui là đẹp nếu tâm hồn chìm đắm trong một nỗi buồn vô tận.
Hơn hai ngàn năm trước, trong đêm huyền diệu của Cứu Chúa Giáng Sinh, muôn thiên thần đã trổi lên một khúc hát rất tuyệt: “Sáng Danh Chúa trên các từng trời rất cao, Bình an dưới thế, ân sủng cho loài người”. Bình an và ân sủng là nhu cầu thiết yếu trong cõi nhân sinh! Thế giới sẽ đẹp hơn, an toàn hơn, thân ái hơn không phải là do những kỳ quan được xây dựng, không phải là do những kho vũ khí lớn lao hùng mạnh, không phải là do những mạng lưới internet như Facebook hay Twitter…mà là do mỗi cá nhân tìm thấy được an bình trong tâm khảm, tắm gội trong nguồn ân sủng vô biên.
Một trong những lời hứa diệu kỳ: “Nước Ta cho sẽ thành một mạch nước trong người đó…”. (Giăng 4:14). Có lẽ đức Đạt Lai Lạt Ma từng thấu hiểu lẽ nhiệm mầu trong lời phán của Chúa Giê-xu chăng? Một khi trong tâm ta có một mạch nước sự sống, thì sẽ tuôn trào sự sung mãn, niềm hoan hỉ như một dòng suối trường sinh cho tất cả tha nhân. Đó chính là nguồn cội của “tâm bình, thế giới bình” mà loài người mãi mãi kiếm tìm.
“Ta để sự bình an lại cho các con, Ta ban cho các con sự bình an chẳng phải như thế gian cho. Lòng các con chớ bối rối và đừng sợ hãi”. (Giăng 14:27). Lời phán hứa đó như  còn văng vẳng bên tai, mà sao tâm ta vẫn còn trống trãi, bất an? Phải chăng cuộc sống dương trần chỉ là chuỗi ngày sầu muộn, đớn đau? Ước gì ta như con chim mẹ bình thản mớm mồi cho con trong một khe núi cheo leo, mặc cho bên ngoài gió vẫn rì rào thổi mạnh, sóng vẫn vỗ ầm ĩ khôn nguôi!

Tuesday, 6 December 2011

BẠN TẶNG QUÀ GÌ TRONG MÙA NÔ-ÊN?


Hội St Vincent de Paul vừa liệt kê 25 thứ họ được hiến tặng nhiều nhất trong tháng Giêng 2010, tức sau mùa Giáng Sinh năm trước. Chiếm đầu danh sách là những thứ sau đây:  Áo T-shirt có dòng chữ Nô-ên, Xà bong và vật dụng nhà tắm, Cốc đựng cà-phê, Khung hình, Bình bông, Đèn cầy và những hộp giấy màu trang trí,  Sổ nhật ký và lịch, Hộp khăn mùi-xoa v.v… Đó là những thứ người ta thường nhận được trong mùa Nô-ên, không dùng hoặc không thích, và đem tặng lại cho những Hội từ thiện.
                Cô Carol Tayler của Hội St Vincent de Paul cho biết: theo cuộc thăm dò gần đây, có tới một phần ba người Úc nhận những món quà họ không bao giờ xử dụng, rồi sau đó vứt đi. Cô nói: “Chúng tôi mong mọi người thực sự suy nghĩ những gì họ sẽ mua trong những ngày Giáng Sinh. Nếu họ vung tiền mua sắm những quà tặng không được dùng đến thì nên góp phần với những hội từ thiện để cứu giúp nhiều kẻ trong cơn cùng khốn, số tiền đó sẽ trở nên hữu ích nhiều hơn!”(The Herald Sun 21/11/11)
                Thực ra việc tặng quà cho nhau trong dịp vui mừng là điều rất tốt, nhưng cũng có rất nhiều quà tặng không cần tốn tiền mà lại là vô giá. Hãy cho nhau một nụ cười, một vòng tay ôm thánh thiện, một lời chào thân ái, một câu chúc chân thành, nhứt là cho những người mà ta không thích, những người đem đến cho ta phiền muộn, đau đớn suốt năm qua. Khi tặng quà, ta muốn bày tỏ với người được cho rằng ta yêu mến họ, nhưng cũng có khi ta muốn nhắn với người không được cho  rằng “tôi không thích anh nên tôi không tặng quà cho anh!”. Thôi thì, hãy mang thông điệp của Mùa Đại Lễ đến với mọi người, như bài thánh ca Nô-ên đầu tiên 2000 năm trước: Sáng danh Thiên Chúa trên các từng trời; hòa bình dười đất, ân sủng cho loài người”. Hòa bình và ân sủng há chẳng phải là thứ mà ai cũng thiếu, ai cũng muốn nhận, ai cũng muốn trân quí hay sao?
                Mua một món quà cho người ta yêu, ta thích, rất dễ. Nhưng mang tình thân ái, mối thông công và lòng thứ tha độ lượng đến với mọi người, lại là những người làm ta tổn thương, đòi hỏi nơi ta một bản lãnh cao thượng, một tấm lòng vị tha vĩ đại, một tâm hồn biết tôn thờ chân-thiện-mỹ lớn lao. Nếu không có sức mạnh siêu việt ban cho từ thiên thượng, thì mấy ai làm được nhỉ?

Monday, 28 November 2011

MA-RI


Tuần rồi chúng ta đã lượt qua vài nét chính trong cuộc đời của người trinh nữ được chọn lựa. Một người đã trổi lên bài ca rất tuyệt mà trong đó nàng đã nói “Từ rày về sau, muôn đời sẽ khen tôi là kẻ có phước”. Nhưng bây giờ, chẳng những người ta khen nàng, mà còn thờ phượng nàng nữa! Vậy thì từ đâu và từ bao giờ xảy ra việc tôn thờ thánh nữ Ma-ri? Đây là một đề tài lớn, tác giả chỉ xin tóm gọn một vài ý chính. Nếu Quí Vị có ý kiến hay những điều chỉ giáo, xin vui lòng gửi về Email: renewthestrength@gmail.com. Chân thành cảm tạ.
                Như đã nói, lần cuối cùng Kinh Thánh nhắc đến Ma-ri là ở Công Vụ 1:14. Sau đó có lẽ bà sống với sứ đồ Giăng cho đến tuổi già và qua đời trong sự chăm sóc của ông. Như vậy Kinh Thánh không hề nói đến những việc như Ma-ri vô nhiễm nguyên tội, đồng trinh suốt đời, hồn xác về trời hay khuyến khích tín đồ tôn thờ bà như “mẹ của Đức Chúa Trời”. (Tham khảo Kinh Thánh: Giăng 3:6, Rô-ma 5:12, Lu-ca 1:47,48, Lu-ca 2:7, Mác 3:31).
                Ngoài Kinh Thánh, những văn sách của các giáo phụ trong 5 thế kỷ đầu tiên cũng không đề cập đến tục thờ lạy Ma-ri. Và như thế nguồn gốc của việc tôn thờ nầy đều phát sinh từ truyền thuyết do con người đặt ra mà thôi. Câu chuyện hoang đường về việc Ma-ri được cất lên trời xuất hiện lần đầu tiên trong sách Sử-ký của Eusebe. Ông viết “Trong năm 48 sau Công nguyên, Ma-ri, nữ đồng trinh, được cất lên trời…”.Về sau ai cũng biết sách Sử-ký đó là giả mạo. Vào thế kỷ thứ 6 và thứ 7 lại dấy lên truyền thuyết rằng khi Ma-ri qua đời, chính Đấng Christ đã hiện đến và đem thân xác bà về trời với Ngài. Điều nầy cho đến nay tất cả những giáo hội Cải chánh đều chối bỏ.
                Tóm lại, suốt 500 năm đầu tiên của Hội Thánh, không có việc thờ phượng Ma-ri. Cho đến thế kỷ thứ 6, giáo lý nầy mới lan tràn trong Hội Thánh, phát xuất từ những lời truyền khẩu không được đặt nền tảng vào Kinh Thánh là Lời Đức Chúa Trời!
“Ngài đã đoái đến sự hèn hạ của tôi tớ Ngài” (Lu-ca 1:48)

Thursday, 24 November 2011

MA-RI


Năm trăm năm trước khi bài Thánh Ca Nô-ên đầu tiên trổi lên trên vòm trời Bê-lem trong đêm huyền diệu, nhà đại tiên tri Ê-sai của Do thái đã loan báo: “Nầy, một gái đồng trinh sẽ chịu thai, sanh ra một trai và đặt tên là Em-ma-nu-ên” (7:14). Nàng trinh nữ được chọn lựa trong lời tiên báo đó tên là Ma-ri.
                Ma-ri nghĩa là “Người được Thiên Chúa tôn lên”. Người ta không rõ Ma-ri sinh ra trong một gia đình thế nào, cha mẹ nàng là ai, làm nghề gì. Chỉ biết rằng nàng thuộc chi phái Giu-đa, dòng dõi vua Đa-vít. Với vài nét phát họa trong Thánh Kinh, ta có thể hình dung tánh hạnh của Ma-ri. Nàng là người chăm chỉ học Kinh Thánh, lấy những bậc nữ thánh làm mẫu mực cho đời sống (Lu-ca 1:46). Đức tin và lòng thuận phục hiện ra rất rõ nét trong tâm hồn (Lu 1:38). Người ta tôn quí nàng vì tấm lòng mềm mại, trung tín, khiêm nhường, nhẫn nại, đáng yêu, thật thà, nhiều nghị lực, hết lòng với gia đình, con cái.
                Sau câu chuyện mầu nhiệm của đêm Giáng Sinh, các tác giả Tân Ước rất ít nhắc đến Ma-ri. Người ta chỉ đếm được 5 lần xuất hiện: Lần thứ nhứt khi mục kích cậu con trai phi phàm ứng xử với những thầy tế lễ trong đền thờ. Thứ hai tại đám cưới Ca-na. Thứ ba muốn trò chuyện cùng Ngài khi thấy con trai mình không nghỉ ngơi, ngày đêm miệt mài trong chức vụ. Nhưng lần xuất hiện thứ tư là đau đớn nhất, từng bước lần theo đoạn đường khổ nạn, đứng dưới chân thập tự nhìn con mình chịu chết với tâm hồn tan vỡ, sầu bi.
                Lần cuối cùng Kinh Thánh chép về Ma-ri là Công vụ 1:14 khi bà và anh em Ngài cùng với các môn đồ khác “bền lòng đồng một ý mà cầu nguyện”. Bây giờ thì họ mới thật sự biết Ngài, tin Ngài. Nỗi đau thập tự đã được thay bằng niềm hân hoan của ngày khải hoàn sống lại. Có lẽ từ đó cho đến hết cuộc đời, bà khép mình dưới sự cưu mang của sứ đồ Giăng theo như di huấn của Chúa. Truyền khẩu ghi rằng sứ đồ Giăng không chịu rời khỏi xứ Do thái cho đến khi bà trút hơi thở cuối cùng trong cánh tay trìu mến của ông.
“Từ rày về sau, muôn đời sẽ khen tôi là kẻ có phước “ (Lu-ca 1:48)