Mục sư Robert Lowry là người chăn bầy cho một Hội Thánh tại thành phố New
York. Vào năm 1864 thời tiết tại đó bỗng dưng khắc nghiệt, vừa oi bức vừa ẩm
ướt cách khác thường. Và rồi một trận dịch kinh hồn bắt đầu quét ngang thành
phố. Ở đô thị đông đúc, hết người nầy đến người khác lần lượt ngã xuống. Người
chết càng lúc càng nhiều.
Mục sư Robert Lowry đi thăm từ nhà nầy qua nhà nọ, ủy lạo người bệnh, an
ủi gia đình có tang chế. Một câu hỏi nhiều tín đồ nêu lên cứ vương vấn mãi trong
tâm hồn ông: Thưa Mục sư, chúng ta sẽ chia tay trước ngưỡng cửa sự chết, liệu
rồi đây sẽ còn gặp nhau nữa hay không? Ông chỉ biết an ủi họ rằng dù hạnh phúc
bây giờ tan vỡ, nhưng rồi sẽ vẹn toàn ở dòng sông bên ngai Đức Chúa Trời, như
lời Thánh Kinh: “Thiên sứ chỉ cho tôi xem sông nước sự sống, trong như lưu ly,
từ ngôi Đức Chúa Trời và Chiên Con chảy ra” (Khải Huyền 22:1). Ông cứ nhắc đi
nhắc lại mãi lời hứa nầy với hàng trăm gia đình phủ trong màu tang chế, khi
người thân và bạn bè lần lượt ra đi.
Vào một buổi chiều nọ, vị Mục sư mệt mỏi trở về phòng khách, trong cái
nóng bức kinh hồn và số người chết nhiều vô kể, ông chán nản ngồi vào cây đàn
phong cầm để tìm chút lắng đọng bằng âm nhạc, mong có vài phút giải thoát khỏi
những cảm xúc đè nặng trong tâm. Ông nhớ đến những đứa trẻ xinh đẹp như thiên
thần đã không chịu nổi sự tàn hại của bệnh dịch. Ông nghĩ đến những thanh niên
thiếu nữ, đàn ông đàn bà đã nằm xuống trước lưỡi hái tử thần. Và đột nhiên câu
hỏi lại trở về: Chúng ta sẽ gặp nhau lại chăng? Giữa sự xâu xé đó, dòng nhạc
bỗng trào dâng. Bắt đầu bằng một thắc mắc như có chút ngờ vực, nhưng rồi
bởi đức tin mạnh mẽ, câu trả lời thật sinh động và dứt khoát: “Vâng, ta sẽ
chung nhóm ở thiên hà!”.
Phải chăng sau nầy họp trên sông vàng.
Nơi muôn thiên sứ hay lai vãng?
Sông kia tuôn dòng lưu ly muôn đời.
Lưu ra từ ngôi Đức Chúa Trời.
Vâng, ta sẽ chung nhóm ở thiên hà. Là sông đẹp xinh không thể
thuật ra.
Sông đây nơi họp của thánh dân muôn
đời. Sông tràn từ ngôi Đức Chúa Trời”.
Bài hát đã
trở thành một thánh ca bất hủ suốt dòng lịch sử giáo hội gần 200 năm qua.
No comments:
Post a Comment