Thursday, 23 August 2018

SAMSONITE

Những doanh nhân thành đạt thường xách cạc-táp hiệu Samsonite. Những du khách giàu có dùng va-li hiệu Samsonite, vừa đẹp, vừa bền, vừa sang trọng. Người sáng lập thương hiệu Samsonite là Jesse Shwayder, một thanh niên gốc Do-thái.
Jesse Shwayder theo cha mẹ từ Đông Âu đến định cư tại Mỹ vào năm 1900. Cha của anh mở hết tiệm nầy đến tiệm khác, nhưng cả thảy đều thất bại. Ông vay mượn lung tung, nợ nần chồng chất đến nỗi phải dong ruổi tránh mặt những chủ cho vay. Đến thành phố Denver ông mở một tiệm bán trái cây, rau cải. Nhưng vận đen dường như cứ đeo đuổi mãi. Thấy cha càng ngày càng tiều tụy, Jesse nói: “Cha hãy để con lo việc kinh doanh. Biết đâu nhờ cậy Chúa, con có thể thay cha quán xuyến mọi sự”.
Denver lúc bấy giờ là thành phố du lịch, khách từ phương xa đến nghỉ dưỡng rất đông. Đứng trước cửa hàng rau trái, Jesse trông thấy nườm nượp người bước ra từ bãi đậu xe với những túi xách và kéo va-li. Trong đầu óc bén nhạy, Jesse quyết định sửa sang cửa tiệm, biến nó thành một cửa hàng bán túi xách du lịch. Vì tiệm ờ sát cạnh bãi đậu xe nên va-li, túi xách của anh được tiêu thụ với số lượng rất lớn.
Chẳng bao lâu sau những công ty sản xuất túi xách nổi tiếng đều cung cấp hàng cho tiệm của Jesse. Chỉ trong vòng hai năm, số tiêu thụ của Jesse Shwayder đã dẫn đầu toàn nước Mỹ. Lúc ấy các thương hiệu đều tỏ lòng tri ân. Họ quyết định tổ chức một bữa tiệc lớn tại New York để chiêu đãi Jesse Shwayder. Hôm đó tất cả đại diện của các công ty đều ra tận ga xe lửa chào đón một doanh nhân thành đạt. Nhưng khi nhìn thấy Jesse Shwayder từ toa xe bước xuống, mọi người đều chưng hửng, vì chàng chỉ là một cậu bé mới 16 tuổi!
Sau đó, Jesse quyết định tung ra một sản phẩm cho riêng mình. Anh tập trung tâm trí vào việc chế tác với tôn chỉ đẹp, bền và sang trọng, đặt tên là Samsonite. Samsonite là lấy từ tên Samson, một quan xét với khả năng siêu phàm trong Kinh Thánh mà anh đã ghi khắc trong tâm trí từ lúc còn thơ ấu.
Người Do-thái có một câu nói “Có trí tuệ là có của cải”. Trong một cuộc phỏng vấn, nhà báo hỏi Jesse Shwayder phải chăng đây cũng là bí quyết của ông? Jesse trả lời: Vâng, nhưng có tôi còn có một bí quyết cao đẹp hơn, được ghi trong  sách Châm Ngôn: “Sự kính sợ Thiên Chúa là khởi đầu sự khôn ngoan” (1:7).

Wednesday, 15 August 2018

PHƯỚC HẠNH CỦA LÒNG CẢM TẠ CHÚA


Vào năm 1860 có một sinh viên thần học tên Edward Spencer. Anh vừa học vừa làm nhân viên cấp cứu cho những du thuyền qua lại trên hồ Michigan. Bữa nọ có một du thuyền bị chìm, anh Spencer bơi ra bơi vào nhiều lần, cứu được cả thảy 17 hành khách. Vì làm việc quá sức và dầm mình lâu dưới nước, anh bị bịnh phổi và qua đời sau một thời gian chống chọi với đau đớn, bệnh tật. Rất lấy làm lạ, người ta kể lại rằng trong đám tang của anh không có một người nào trong số 17 nạn nhân đã được cứu vớt bỏ thì giờ đến chia buồn, tham dự.
Tổng thống Benjamin Franklin từng nói: ‘Con người đền bù những ơn huệ nhỏ, ghi nhớ những ân huệ trung bình và đáp lại những ơn huệ lớn bằng sự vô ơn’.
Phúc Âm Lu-ca chương 17 có ghi lại một phép lạ Chúa Giê-xu chữa lành cho mười người phung. Thời bấy giờ đây là căn bệnh nan y. Bệnh nhân bị đuổi ra khỏi bà con bạn hữu, sống lẻ loi, chết mỏi mòn trong sa mạc, gặp người đến gần phải hô lên “ô uế, ô uế” để họ tránh xa. Phép lạ của Chúa là “cải tử hoàn sinh”, làm sống lại từ cõi chết. Nhưng Chúa Giê-xu ngạc nhiên “sao chỉ có một người quay lại cảm ơn?” và ngạc nhiên hơn nữa vì đó là một “người ngoại quốc”.
“Còn chín người kia ở đâu?”
Hãy ngưng lại trong giây lát, tự hỏi: tôi có biết ơn Chúa không? Đôi lúc ánh sáng trong cuộc đời lịm tắt, rồi bỗng dưng nó được nhen lại bởi tia lửa của một ai đó. Chúng ta phải nghĩ tới người đã làm bừng lên ngọn lửa trong ta với lòng cảm tạ.
Toàn bộ Kinh Thánh có tất cả 250 lần nói đến sự “cảm tạ” và “biết ơn”. Tựu chung dạy chúng ta ba phước hạnh của người luôn biết ơn và cảm tạ Chúa:
1.     Người biết cảm tạ Chúa là người nắm giữ chiếc chìa khóa của cuộc đời hạnh phúc.
2.     Người biết cảm tạ là người sở hữu phương thuốc kỳ diệu, chữa lành mọi cay đắng trong đời.
3.     Người biết cảm tạ là người được trang bị cho cuộc chiến đấu – và chiến thắng- trước những trận chiến tâm linh.

“Hỡi Đấng Chí Cao, thật lấy làm tốt mà ngợi khen và ca tụng Danh của Ngài” (Thi thiên 92:1)

Tuesday, 14 August 2018

LÒNG BIẾT ƠN


Chàng vừa tốt nghiệp đại học, nộp đơn làm quản lý cho một công ty lớn. Rất may được chính vị giám đốc phỏng vấn. Ông xem học bạ của chàng lấy làm hài lòng vì luôn luôn có thành tích xuất sắc.
Ông hỏi: Anh có nhận được học bổng từ trường không? –Dạ không bao giờ. Vậy là cha anh trả toàn bộ học phí cho anh phải không? –Dạ, cha tôi qua đời khi tôi vừa được một tuổi. Tất cả học phí là do mẹ tôi trang trải. Giám đốc hỏi tiếp: Vậy mẹ anh làm việc ở công ty nào? –Dạ, mẹ tôi giặt ủi quần áo cho khách hàng.
Ông giám đốc đề nghị chàng cho xem hai bàn tay. Chàng có đôi tay đẹp và mềm mại. Ông hỏi: Từ trước đến nay anh có giúp đỡ mẹ giặt ủi quần áo không? –Dạ không. Mẹ tôi lúc nào cũng muốn tôi chăm chỉ vào việc học, hơn nữa bà giặt ủi nhanh hơn tôi nhiều. Cuối cùng giám đốc nói: Tôi có một yêu cầu, đó là hôm nay khi về nhà anh rửa hai bàn tay của mẹ anh, rồi sáng mai đến đây gặp lại tôi.
Rất mừng rỡ vì biết mình có cơ hội trúng tuyển, anh về gặp mẹ và xin hãy để anh rửa hai bàn tay của bà hôm nay. Mẹ rất ngạc nhiên nhưng cũng vui và cảm động được con chăm sóc. Chàng trai trẻ chầm chậm rửa sạch đôi bàn tay của mẹ. Bỗng dưng hai dòng nước mắt chảy dài trên má. Lần đầu tiên anh cầm lấy đôi bàn tay nhăn nheo và chai cứng của mẹ, trên đó còn có những vết thẹo do công việc nặng nhọc để lại. Anh nhận ra rằng chính đôi tay nầy đã quần quật suốt ngày đêm để anh có đủ tiền ăn học, vui chơi cùng chúng bạn. Những vết sẹo ngang dọc đó là cái giá mua lấy cho anh những bảng điểm xuất sắc và mảnh bằng vinh dự ngày hôm nay.
Buổi sáng khi trở lại văn phòng, giám đốc thấy trên khóe mắt anh vẫn còn ngấn lệ. Ông hỏi: anh hãy cho tôi biết cảm xúc khi rửa hai bàn tay của mẹ? –Thưa ông, tôi đã khóc rất lâu khi rửa đôi tay của mẹ. Tôi hiểu nhờ có mẹ mà tôi được như ngày hôm nay. Tôi hiểu rằng kiếm tiền không phải là dễ, và nhất là tôi học biết trân trọng tình cảm gia đình, biết ơn công khó của những người đã cưu mang tôi. Giám đốc tươi cười nói: Đó chính là những gì tôi cần tìm nơi một nhà quản lý. Anh có thể bắt đầu công việc ngày mai.
“Đức Chúa Giê-xu cất tiếng phán rằng: Không phải mười người đều được sạch cả sao? Còn chín người kia ở đâu? Chỉ có người ngoại quốc nầy trở lại ngợi khen Đức Chúa Trời ư?” (Lu-ca 17:11-19)

Tuesday, 7 August 2018

BÍ QUYẾT KINH DOANH CỦA NGƯỜI DO-THÁI


Dân Do-thái chỉ có tổng cộng 14 triệu, chiếm 0,2% dân số thế giới. Thế nhưng, trong lãnh vực chính trị, khoa học và tư tưởng, họ chiếm đến 1/10 những người nổi tiếng. Nghĩa là cứ 10 nhân vật hàng đầu thì có một người Do-thái hoặc hậu duệ của họ.
Có thể chính vì xuất sắc quá mà người Do-thái phải chịu nhiều đố kỵ, ganh ghét. Lịch sử cho thấy dân tộc nầy trải qua biết bao cuộc bách hại, tàn sát. Một trong những hiểu lầm tai hại, là nhiều người cho rằng dân Do-thái thường kinh doanh trên sự bóc lột, chèn ép người khác, như cho vay ăn lời cắt cổ chẳng hạn. Họ bị tô vẽ ra hình ảnh của một cộng đồng hà tiện, coi nặng đồng tiền, không quan tâm đến lợi ích người khác mà chỉ nghĩ đến cách làm giàu trên xương máu của đồng loại.
Sự thật có phải như vậy không? Nguyên tắc làm ăn của người Do-thái là gì?
Lần giở Thánh Kinh chúng ta có thể hiểu được phần nào quan niệm kinh tế của người Do-thái. Điều cuối cùng trong Mười Điều Răn họ thuôc nằm lòng, là “Ngươi chớ tham nhà kẻ lân cận ngươi, cũng đừng tham vợ người, hoặc tôi trai tớ gái, bò, lừa, hay là vật chi thuộc về kẻ lân cận ngươi” (Xuất 20:17). Tinh thần cơ bản của người Do-thái là không làm phiền người khác, không làm hại người khác. Từ đó họ có một nguyên tắc vàng khi làm ăn, buôn bán: “Việc mình không muốn thì đừng làm cho người khác”. Đây không những là tư tưởng kinh doanh mà còn là cơ sở của tôn giáo người Do-thái. Với căn bản niềm tin đó, họ kinh doanh cách quang minh chính đại, công bằng và nhân đạo.
Dẫn chứng một thí dụ. Vào thế kỷ thứ 12 người Do-thái khắp nơi làm ăn rất thịnh vượng. Trong số họ nhiều người cho vay lấy lời. Thành công nầy dẫn đến sự ganh tị. Chính quyền thời đó ra lịnh cấm hẳn nghề cho vay. Dầu không thể tiếp tục nữa, nhưng uy tín của những chủ nợ Do-thái không hề bị suy suyển. Một thời gian sau, người Ý trổi dậy chiếm lĩnh thị trường cho vay lấy lời, với sự hậu thuẫn của chính quyền thời đó. Nhưng vì lề lối cho vay của những người Ý (thường gọi là Lombardo) không đặt nền tảng trên đạo đức của Thánh Kinh nên cuối cùng tiếng tăm rất xấu.
Chúa Giê-xu đã từng nêu lên một lối cư xử cao thượng: “Hễ điều chi các ngươi muốn người ta làm cho mình, thì cũng hãy làm điều đó cho họ” (Ma-thi-ơ 7:12).
Lời dạy vàng ngọc nầy chẳng những đúng trong lãnh vực thương mại, mà cũng đúng cho mọi sinh hoạt hằng ngày của đời sống!

Wednesday, 1 August 2018

SAO GỌI TÔI LÀ DA MÀU?


Một đứa bé Phi Châu đã viết bài thơ tựa đề “Who is coloured?” (Ai là người da màu?). Bài thơ được cơ quan Văn hóa Liên Hiệp Quốc chọn là áng văn hay nhất trong năm 2006. Bài thơ như sau:
When I born, I black. When I grow up, I black. When I cold, I black. When I go in sun, I black. When I scared, I black. When I sick, I black. And when I die, I still back.
And you white fellow!
When you born, you pink. When you grow up, you white. When you cold, you blue. When you go in sun, you red. When you scared, you yellow. When you sick, you green. And when you die, you grey.
And you calling me coloured?
(Tôi sinh ra, đen. Tôi lớn lên, đen. Khi tôi lạnh, đen. Tôi phơi nắng, đen. Khi tôi sợ, đen. Lúc tôi bệnh, đen. Rồi khi chết, tôi vẫn đen.
Hỡi những người bạn da trắng!
Khi bạn sinh ra, hồng. Bạn lớn lên, trắng. Lúc bạn lạnh, xanh. Bạn phơi nắng, đỏ. Khi bạn sợ, vàng. Khi bạn bịnh, màu lá. Và khi chết, bạn xám.
Thế mà bạn gọi chúng tôi là da màu?)
Thói thường đánh giá người khác do chủ quan, định kiến, kỳ thị và lòng đố kỵ nên khó tránh khỏi bất công, phiến diện. Bởi thế người xưa còn để lại lời khuyên: “Tiên trách kỷ, hậu trách bỉ” (tự trách mình trước khi trách người) là thế.
Chúa Giê-xu còn nêu lên một hình ảnh khắc khe hơn trong việc xét đoán người khác. Ngài phán: “Sao ngươi dòm thấy cái rác trong mắt anh em ngươi, mà không thấy cây đà trong mắt mình? Hỡi kẻ đạo đức giả! Trước hết phải lấy cây đà khỏi mắt mình, rồi mới thấy rõ mà lấy cái rác khỏi mắt anh em mình được”.
Lời dạy của Ngài thật rõ ràng: “Các ngươi đừng đoán xét ai, để mình khỏi bị đoán xét” (Ma-thi-ơ 7:1-5).