Thursday, 31 December 2015

NGÀY TỬ TẾ 13 THÁNG 11

Nhắc đến ngày 13 tháng 11, chúng ta liền nghĩ ngay đến cuộc khủng bố tại Paris vào hôm thứ Sáu buồn thảm. Nhưng Bạn có biết 13 tháng 11 hằng năm cũng là Ngày Tử Tế Thế Giới? Vâng, Ngày Tử Tế Thế Giới 13 tháng 11 được World Kindness Movement đề xướng từ năm 1998, cách nay 18 năm. Đã có nhiều quốc gia công nhận như Mỹ, Canada, Nhật Bản, Úc, Thái Lan, Singapore v.v.... Mục đích chính là tạo thân thiện, xóa bỏ ranh giới kỳ thị, giúp mọi người cảm thông, tha thứ, gần gũi với nhau hơn. Trong ngày đó có những lễ hội, ca hát, tặng quà, trao thiệp, khiêu vũ “dance for kindness”.
Vô tình hay cố ý, cuộc khủng bố tại Paris rơi vào Ngày Tử Tế. Nhưng  trong biển máu thù hận, may mắn thay vẫn còn nở rộ đóa hoa yêu thương, nhân đạo qua cách người dân thành Paris thể hiện tình người.
Nửa đêm hôm đó vẫn còn đông dân chúng kẹt lại giữa thủ đô. Tất cả những phương tiện di chuyển công cộng đều có lệnh tạm ngưng hoạt động. Trời rất lạnh, vì đã vào Đông, nhưng không có cách về nhà, nhiều người lang thang ngoài phố. Lập tức dân chúng ở các khu phố chung quanh tự động lập ra “Phong Trào Mở Cửa” (Porte Ouverte). Họ mở rộng vòng tay mời bà con vào nghỉ chân, sưởi ấm với cà phê, trà nóng, thức ăn nhẹ. Trên điện thoại hoặc Facebook cư dân phát đi lời mời khách tha phương trú ngụ tại nhà mình. Nhiều gia đình gắn tấm bảng “Porte ouverte” phía trước, chuẩn bị thức ăn, nước nóng, phòng tắm, và giường ngủ nếu họ muốn ở lại qua đêm. Tình người còn biểu hiện sinh động qua việc làm của các công ty và tài xế taxi của bốn quận xung quanh. Họ điều động hơn 1000 xe ghi có phía trước “Taxi miễn phí, xin mời” để chở những lữ khách đang mệt mỏi, buồn về nhà. Tấm lòng bao dung giữa hoàn cảnh rối ren đó thật cần thiết và đáng ngưỡng mộ biết bao.
Chúng ta thường nghe nói: “Thà thắp lên một ngọn nến, hơn là ngồi đó nguyền rủa bóng tối”. Đức Đạt Lai Lạt Ma viết: “Khi ta thương yêu, tử tế với người khác, không những họ được quý trọng, yêu mến; nhưng chính mình cũng cảm nhận sự an lạc trong tâm hồn và hạnh phúc bên trong”. 

Hai ngàn năm trước, sứ đồ Phao-lô nhắc nhở cộng đồng tín hữu Cơ-đốc tại thành phố Ê-phê-sô: “Hãy ở với nhau cách nhơn từ, đầy dẫy lòng thương xót, tha thứ nhau như Đức Chúa Trời đã tha thứ anh em trong Đấng Christ vậy!” (Ê-phê-sô 4:32). 

MỘT DÂN TỘC RỘNG LƯỢNG

Cứ đến gần cuối năm, tổ chức CAF (Charities Aid Foundation) thường làm một bảng tổng kết về “chỉ số bố thí” của những quốc gia trên thế giới.
Năm nay họ sắp hạng 145 nước, chiếm 96% kinh tế toàn cầu, ghi nhận tính vị tha của mỗi dân tộc dựa trên ba yếu tố: tặng tiền bạc cho người nghèo, giúp đỡ những người không quen biết và số công dân tham gia các công tác thiện nguyện. Điều bất ngờ làm cho thế giới ngạc nhiên hết sức: nước đứng hạng Nhất trong danh sách là Miến Điện! Sau đó mới tới hạng Nhì: Hoa Kỳ, Ba: New Zealand, Tư: Canada, và hạng Năm: Australia.
Miến Điện là một nước rất nghèo, nửa thế kỷ sống dưới chế độ độc tài quân phiệt, năm mươi phần trăm dân chúng không đủ tiền để mua lương thực và 49% thiếu thốn nhà cửa. Thế mà, họ là dân tộc dẫn đầu trong danh sách từ thiện của toàn thế giới. Nếu Bạn tò  mò muốn biết thêm, thì Việt Nam hạng 79, tức dưới trung bình một chút. Trong khi đó Trung Hoa đứng thứ 144 trên 145, nghĩa là áp chót. Nói chung các nước theo chế độ Cộng sản cũ ở những bậc rất thấp, như Nga 129, Hungary 124, Tiệp Khắc 130. Riêng Bắc Hàn thì không được liệt kê vào danh sách.
Điều thú vị hơn nữa, là tại Miến Điện, có tới 92 phần trăm dân chúng làm việc bố thí, dù rằng chính họ mới cần được cứu trợ. Trong khi đó, 20 nước giàu có nhất mà chúng ta thường gọi là G20, thì chỉ có 5 nước được xếp vào hàng “top ten”! Hơn 90 năm trước, vị sáng lập phong trào Hướng Đạo, huân tước Baden Powell, đã viết: “Dù mỗi cá nhân người Miến Điện thành công hay thất bại, nhưng dân tộc Miến Điện là vĩ đại nhất thế giới, vì họ là dân tộc hạnh phúc nhất”. Hạnh phúc ở tấm lòng quãng đại.
Đa số dân chúng Miến Điện theo Phật giáo. Phải chăng họ thấm nhuần sự dạy dỗ đức từ bi của đạo Phật? Hay chỉ vì cá tánh của họ là buông xả, không màng đến của cải vật chất? Dù gì đi nữa, họ cũng đã làm tấm gương cho chúng ta về đức bác ái, vị tha.

Một trong những bí quyết để tìm gặp hạnh phúc trong đời là học biết “ban cho”. Như lời Chúa Giê-xu đã truyền dạy: “Ban cho thì phước hạnh hơn là nhận lãnh” (Công Vụ 20:35).

Monday, 21 December 2015

PHÉP LẠ TẠI CHIẾN TRƯỜNG

PHÉP LẠ TẠI CHIẾN TRƯỜNG

Câu chuyện xảy ra vào mùa Giáng Sinh năm 1914, trong thế chiến thứ I.

Cuộc giao tranh ác liệt giữa quân Đức và liên minh Anh, Pháp, Bỉ. Hàng ngàn binh sĩ ngã gục. Đau thương bao trùm khắp Âu châu và nhiều quốc gia trên thế giới. Nhưng một điều kỳ diệu đã xảy ra trong đêm Giáng Sinh năm đó, khi các chiến sĩ của hai bên tự động hạ súng xuống, bất chấp quân lịnh, để cùng nhau ăn mừng Thiên Chúa giáng trần.

Giữa màng đêm tĩnh lặng, bên trong giao thông hào quân Đức, có một giọng ca đơn độc cất lên bài hát ‘Silent Night, Holy Night’ –Đêm thánh yên lặng, Đêm thánh an bình. Đất vắng yên! Thiên quang ngời! Tiếng ca bắt đầu rất lẻ loi, tội nghiệp. Nhưng rồi, một vài người, vài chục người, rồi hàng trăm binh sĩ Đức cùng hòa nhịp với bài thánh ca danh tiếng. Trong khi đó, quân đội Anh bên kia chiến tuyến vẫn bất động, tay ghìm súng, chờ lịnh tấn công.

Khi bài hát chấm dứt, dường như không thể hờ hững được nữa, tiếng la hú và vỗ tay từ quân Anh “More, more!” (Hãy hát nữa đi!). Rồi không ai bảo ai, cả hai bên cùng hòa nhịp trong bài ca quen thuộc “We wish you a Merry Christmas”. Để tỏ thiện chí, họ hô lên “Chúng tôi không bắn, xin các anh cũng đừng bắn” và dùng những cây đèn cầy thắp sáng dọc theo giao thông hào như những ánh sao lung linh chào đón Chúa Hài Đồng.

Qua ánh sáng lờ mờ, một trung úy người Đức leo lên khỏi chiến hào, vừa đi vừa hát, tiến đến phòng tuyến của quân Anh. Đáp lại cũng có một sĩ quan Anh chui qua hàng kẽm gai bước đến giữa đường. Họ bắt tay, ôm nhau. Bây giờ mệnh lệnh quân đội không còn ngăn cản được nữa. Súng đạn im bặt. Thay vào đó, tất cả cùng đến, ca hát với nhau, chia nhau thức ăn, từng điếu thuốc, từng giọt rượu như những người anh em thân ái. Rất tiếc, sau hai ngày vui đùa, cấp trên của hai bên đã truyền lịnh chấm dứt ngưng chiến. Bom đạn lại nổ vang, giết chết hàng triệu người, mãi đến năm 1918 thế chiến thứ I mới chấm dứt.

Nhân loại qua bao thế hệ vẫn còn hận thù, bất công, chia rẽ, chỉ vì không mời Đấng Cứu Rỗi, Nguồn Cội của Hòa Bình ngự trị vào lòng và làm chủ vận mệnh dân tộc. Đạo binh thiên thần đã ca tụng trong đêm Ngài sanh hạ: ‘Sáng Danh Chúa trên các từng trời rất cao; Hòa bình dưới thế, Ân sủng cho loài người’ (Lu-ca 2:14).

Lê Trần - 2015

 

 

RỬA CHÉN GIẢM STRESS.

Bạn có thích rửa chén không? Trước đây ông Dominique Loreau (người Pháp) đã viết trong một quyển sách rằng công việc lau nhà, hút bụi, giặt đồ, rửa chén không phải là mệt nhọc, nhưng là cách giảm căng thẳng tinh thần. Quyển sách của ông được giới mày râu tán thưởng nhiệt liệt, nhưng các bà nội trợ thì rất bực bội. Nhưng mới đây, vào tháng 9 năm 2015, đại học Floria công bố kết quả sau một cuộc nghiên cứu đã khẳng định rửa chén sẽ giúp giảm stress!
Stress là chữ có nguồn gốc từ tiếng La-tinh có nghĩa là “kéo căng”. Stress diễn tả sự căng thẳng tinh thần bởi những áp lực của đời sống.
Có 51 thanh niên trong lứa tuổi 20 tham dự cuộc nghiên cứu, chia thành hai nhóm để rửa mỗi người 18 chiếc dĩa: nhóm thứ nhất trước khi bắt đầu công việc được cho đọc một đoạn trích trong quyển sách “Phép lạ Của Sự Tỉnh Thức” do thiền sư Thích Nhất Hạnh viết. Nhóm thứ hai không được đọc tài liệu nầy. Kết quả những người trong nhóm thứ nhất giảm được 27% stress và tăng trí sáng tạo lên 25%, trong khi nhóm thứ hai không có sự thay đổi nào cả.
Đoạn văn được dùng trong cuộc thử nghiệm như sau: “Sự kiện tôi đứng đây và rửa những cái chén nầy là một sự kiện mầu nhiệm. Tôi hoàn toàn là tôi, làm chủ được hơi thở của tôi, ý thức được sự có mặt, ý thức tâm lý và hành động của tôi, tôi không thụ động trong hoàn cảnh, như một cái nút chai bị những đợt sóng trên mặt biển vùi dập và lôi kéo, tâm ý tôi không tán thất trong loạn tưởng như một mớ bọt biển trên đầu sóng, tan nát thảm thương khi làn sóng đập đầu và ghềnh đá...”. Không ngờ chỉ một việc đơn giản nầy thôi mà cũng dạy chúng ta bài học quý giá đến như vậy.
Bây giờ xin mời Bạn nghĩ đến một việc lớn hơn, khó hơn mà Chúa Giê-xu đã phán bảo sau khi Ngài cúi xuống rửa từng bàn chân dơ bẩn của 12 môn đệ: “Nếu Ta là Chúa, là Thầy mà đã rửa chơn cho các ngươi thì các ngươi cũng nên rửa chơn lẫn cho nhau” (Giăng 13:14). Những hành vi phụng sự tha nhân với tâm tình hạ mình, dâng hiến sẽ làm cho cuộc đời chúng ta thăng hoa biết là dường bao!

“Vì Ta đã làm gương cho các ngươi, để các ngươi cũng làm như Ta đã làm cho các ngươi” (Giăng 13:15).

Saturday, 5 December 2015

MỘT NGHĨA CỬ CAO QUÝ

Cô Chloe Clement là một trong những nạn nhân bị thương của cuộc khủng bố vào hôm thứ Sáu 13 tháng 11 năm 2015 tại Paris. Ở trong bệnh viện cô bị khủng hoảng tinh thần rất nặng, vì hôm đó nhiều bạn bè của cô bị giết chết cách tức tưởi. Thân nhân đến thăm, cô không buồn trò chuyện cùng họ nhưng miệng thì cứ lặp đi lặp lại tên của một người: Ludovic Boumbas.
Ludovic Boumbas, 40 tuổi, là một chuyên viên điện toán, người gốc Congo. Hôm đó cả đám bạn cùng đến tiệm cà-phê La Belle Equipe để kỷ niệm sinh nhật của cô Houda Saadi. Cuộc vui đang lúc hào hứng, thì bỗng dưng những tên giết người kéo đến, cứ nhắm vào thực khách mà ria từng tràng đạn. Khi mũi súng hướng về phía cô Chloe Clement, anh Ludovic đã không chần chờ, lao tới ngay phía trước, lấy thân mình che cho cô. Anh chết ngay tại chỗ, còn cô chỉ bị thương ở cánh tay. Nhờ nghĩa cử đó mà Chloe còn sống đến hôm nay. Lúc nào cô cũng tỏ ra áy náy khi nghĩ đến sự hi sinh lạ lùng đó, không biết lấy gì đền đáp được.
Bạn bè thân mật gọi anh bạn người da đen nầy là Ludo. Ai cũng quý trọng và khen ngợi anh hiền lành dễ mến.  Họ kể rằng: “Ludo là người thích du lịch đây đó, nhưng điều cao đẹp nhất trong anh là tình yêu thương đối với mọi người. Hôm nay anh đã thể hiện tấm lòng bằng hành động. Nghĩa cử của anh trong lúc dầu sôi lửa bỏng đó thật kỳ diệu quá!”.
Là con người, ai cũng có bản năng ham sống sợ chết. Vì thế hi sinh tính mạng, sự an toàn của mình để cho người khác được sống luôn được kể là hành động anh hùng, mấy ai làm được. Nó đòi hỏi một thứ tình yêu tha nhân cao độ cộng với tấm lòng bác ái vô biên. Tục ngữ Anh có câu: “Cái chết đẹp nhất là chết cho người khác”.
Sứ đồ Phao-lô khi nghĩ đến sự chết của Chúa Giê-xu, đã viết một câu đầy ý nghĩa, xin mời Bạn đọc dưới đây:

“Thông thường, ít thấy ai chịu chết cho người công chính, hiền lương, nhưng dù sao, nghĩa cử ấy còn có thể xảy ra. Nhưng Thượng Đế tỏ lòng yêu thương Ngài đối với chúng ta, khi Chúa Cứu Thế chịu chết thay chúng ta là người tội lỗi”. (Rô-ma 5:7-8 BDY).

(Photos from Google)

Monday, 30 November 2015

NGƯỜI XẤU NHẤT

Hằng năm thế giới vẫn thường tổ chức những giải hoa hậu nhằm tìm ra một đệ nhất mỹ nhân hoàn vũ. Thí sinh thắng giải là niềm tự hào cho bản thân, cho gia đình và cho dân tộc.
Nhưng ở Zimbadwe thì ngược lại. Mỗi năm câu lạc bộ Harare của quốc gia châu Phi nầy tổ chức giải “Người Xấu Nhất Zimbadwe” (The Ugliest Man). Năm nay anh Maison Sere giành ngôi vô địch. Sere là một chàng thất nghiệp, có bộ răng rụng gần hết, lởm chởm rất ghê. Với gương mặt xấu xí trông đến thảm hại, anh đã đánh bại 5 người vào vòng chung kết để đoạt được phần thưởng 500 dollars, một món tiền rất lớn đối với xứ sở khốn khổ nầy. Sau đó, Sere phát biểu trước cử tọa 200 người rằng: “Tôi cảm ơn Thượng Đế đã cho tôi giành được giải thưởng vinh dự nầy”.
Tuy nhiên, cuộc thi không phải là suông sẻ, vì người chiếm giải nhì sau khi lãnh $100 đã khóc lóc rồi hầm hầm tức giận bỏ về, cho rằng ban giám khảo đã thiên vị, bất công, vì mình mới xứng danh là “người xấu nhất”! Bạn thấy đó, các cô giành nhau danh hiệu hoa hậu, nhưng cũng có người đau buồn thất vọng vì không được làm người xấu xí nhất của một quốc gia.
Ông David Machowa, trưởng ban tổ chức cho biết mục đích của cuộc thi nhằm vinh danh “Nét Đẹp Trong Sự Xấu Xí” và hi vọng sẽ tiến đến việc tổ chức giải “Người Xấu Nhất Thế Giới” trong một ngày gần đây. Tối nay, bạn hãy nhìn vào gương một lần nữa, xem mình có đủ điều kiện tham dự giải nầy vào năm tới không?
Sách Nhã Ca của Thánh Kinh có ghi một câu rằng: “Hỡi chim bồ câu ta trong hốc đá, tại chốn đụt của nơi hê hẩm. Hãy tỏ cho ta xem mặt mũi mình, cho ta nghe tiếng mình. Vì tiếng mình êm dịu, mặt mũi mình có duyên” (2:14). Cô gái tự cho mình là xấu xí, giấu mình vào hốc đá ở một nơi hoang dã. Nhưng người yêu đến, kêu gọi nàng hãy bước ra cho anh trông thấy mặt, vì đối với chàng, nàng là một cô gái “xinh đẹp và đáng yêu”.

Dù bạn là ai, tội lỗi xấu xa ra sao, thì đối với Thiên Chúa, Ngài vẫn nhìn thấy nét đẹp trong cuộc đời bạn. Hãy mạnh dạn bước tới, nhận lãnh sự ban cho kỳ diệu của Ngài!

Tuesday, 17 November 2015

TÌNH LÁNG GIỀNG


Thi sĩ Nguyễn Bính đã viết trong bài thơ “Cô Hàng Xóm” những lời rất đẹp:
Nhà nàng ở cạnh nhà tôi, 
Cách nhau cái giậu mồng tơi xanh rờn. 
Hai người sống giữa cô đơn, 
Nàng như cũng có nỗi buồn giống tôi. 
Nhưng cô láng giềng của ông Bettner ở tiểu bang Florida Hoa Kỳ thì không được tử tế như vậy. Sáu tháng trước ông Bettner, 53 tuổi, dọn về thành phố Ocala, cạnh nhà của cụ bà Staudinger 92 tuổi. Vì thấy bà già yếu, ông thường hay giúp đỡ những chuyện lặt vặt như kéo thùng rác, quét sân v.v...tất cả là vì tình hàng xóm. Nhưng không ngờ hành vi nhân đức đó lại dẫn tới hậu quả nghiêm trọng. Bà cụ Staudinger đem lòng yêu ông!
Một buổi trưa thứ Hai, bà vào nhà của ông Bettner và cứ ở lỳ, không chịu đi. Khi ông yêu cầu bà về thì bà đòi ông ôm hôn một cái mới chịu ra khỏi nhà. Ông nhất định không. Hai người cãi nhau trong một vài phút trước khi bà vùng vằn ra về.  Rồi sau đó khi ông đang ngồi trên ghế nói chuyện điện thoại, thì nghe nhiều tiếng súng nổ. Một cánh cửa sổ bị bắn bể kiếng, viên đạn găm lên tường. Nếu ông đứng thì chắc đã bị thương tích. Đó là những viên đạn hờn ghen của bà cụ Staudinger vì bị từ khước một cuộc tình. Chẳng những thế, chiếc xe mà ông mới mua để đưa đón người bạn gái bị bà bắn nát tả tơi.
Cảnh sát đã bắt giam bà cụ trong nhà tù Madison của tiểu bang. Bà bị truy tố về tội tấn công gây hấn và nổ súng vào nhà người khác. Cuộc xét xử sẽ tiến hành vài ngày tới.

Không cần biết trẻ hay già, hễ trái tim còn đập, thì người ta còn yêu! “Ái tình  mạnh như sự chết” (Nhã Ca 8:6). Chỉ mong rằng trong trái tim của mỗi chúng ta chứa đầy thứ tình yêu cao cả của Thiên Chúa, để người cho và người nhận đều thấy thỏa lòng, phước hạnh. “Ta ban cho các ngươi một điều răn mới, nghĩa là các ngươi phải yêu nhau, như Ta đã yêu các ngươi thể nào, thì các ngươi hãy yêu nhau thể ấy”. (Giăng 13:14).

Wednesday, 28 October 2015

CƯỜI - SỐNG LÂU HƠN.

Một bản tin gần đây cho biết mỗi ngày tại Úc, một đất nước được mệnh danh là “lucky country”, trung bình có 7 người tự kết liễu đời mình. Trong vòng 10 năm qua số người tự tử tăng lên 20%, nhiều hơn số thương vong vì tai nạn giao thông.  Áp lực của đời sống, thiếu vắng tình thương và không tìm thấy hạnh phúc trong đời là những nguyên nhân chính của quyết định tìm về bên kia thế giới.
Trong bài hát “Hãy Ngước Mặt Nhìn Đời” nhạc sĩ Lê Hựu Hà đã viết: “Cười lên đi em ơi, dù nước mắt rớt trên vành môi. Hãy ngước mặt nhìn đời, nhìn tha nhân ta buông tiếng cười”.
Cười để mọi chuyện trên đời qua đi. Bởi vì biết nhìn vào cuộc sống với thái độ lạc quan, khôi hài là ta đang thụ hưởng niềm hạnh phúc tốt đẹp nhất.
Một cuộc nghiên cứu gần đây tại đại học North Carolina (Hoa Kỳ) đi đến kết luận rằng những người biết vui cười sống lâu hơn! Họ theo dõi 30.000 người suốt 30 năm và nhận ra rằng những người tự thấy mình khốn khổ chết nhiều hơn những người có tâm thái an vui đến 14 phần trăm.
Dù tiền lương là bao nhiêu, dù sức khỏe hoặc tình trạng gia đình ra sao, những người luôn cho mình “rất hạnh phúc” đều sống dai hơn những ai thường than thở “đời chả có gì vui”. Bản tường trình cuộc nghiên cứu nầy nêu lên lý do: người vui vẻ và hay cười có khả năng tốt hơn trong việc giải quyết những áp lực của đời sống, có nhiều bạn hữu hơn, nhờ đó mà sức khỏe sung mãn hơn, tuổi thọ dài hơn.
Với những ai thường đọc Thánh Kinh sẽ biết câu nầy: “Ta để sự bình an lại cho các ngươi. Ta ban sự bình an Ta cho các ngươi. Ta cho các ngươi sự bình an chẳng phải như thế gian cho. Lòng các ngươi chớ bối rối và đừng sợ hãi” (Giăng 14:27). Đó là một trong những lời hứa quý báu nhất của Chúa Giê-xu giành cho môn đệ trước khi Ngài rời trần thế.  Hàng ngàn năm qua đã có biết bao người sống vui thỏa vì nhận được sự ban kỳ diệu cho nầy.

“Tâm bình – thế giới bình”. Bạn đã trải nghiệm điều nầy chưa?

Friday, 23 October 2015

CHIẾC VA-LI CỦA TÔI

Một đêm trong mơ tôi thấy mình đối diện với Thượng Đế. Ngài phán cùng tôi rằng: -Nầy con, đã đến lúc phải đi rồi. Ta đã chuẩn bị va-li cho con đó.
Tôi ngạc nhiên trả lời: -Thưa Chúa, sao mau vậy? Con có nhiều dự định phải làm.
Nhưng Ngài phán: -Rất tiếc, đã đến giờ rồi, con ạ.
Tôi nhìn chiếc va-li và hỏi: -Chúa ơi, trong va-li đó có những thứ gì vậy?
Ngài trả lời: -Những gì thuộc về con.
-Những gì thuộc về con? Vậy chắc là quần áo, tiền bạc, đồng hồ...?
-Những thứ đó nào thuộc về con đâu. Chúng là của trần gian.
-Vậy chắc là những tài năng và trí tuệ mà con có được?
-Các điều ấy cũng không phải của con, mà là do đặc ân mà con có.
-Thế thì phải chăng là gia đình, vợ con, bằng hữu?
-Họ đâu phải của con. Họ thuộc về trái tim của con thôi.
-Vậy hẳn để chứa đựng thân xác của con chăng?
-Thân xác không bao giờ là của con. Nó thuộc về cát bụi.
-À, thế thì con biết rồi. Va-li để chứa linh hồn của con.
-Không, linh hồn của con thuộc về Ta.
Tôi bỗng sợ hãi, xin cho được mở va-li ra. Và chỉ thấy trống trơn. Hai dòng lệ chảy dài trên má. Tôi hỏi Ngài: -Con chẳng có gì sao?
Bấy giờ Ngài ôn tồn đáp: -Phải đó. Chỉ thời gian ngắn ngủi mà con sống trên trần thế là thuộc về con.
Tôi choàng mình tỉnh giấc mới hay rằng khi ra đi tôi sẽ không mang một thứ gì theo được. Tôi phải sống bây giờ. Tôi phải sống xứng đáng với thời gian Ngài cho phép tồn tại trên đất. Tôi phải biết sống hạnh phúc. Và mang hạnh phúc đến cho anh chị em xung quanh tôi. Bởi vì tất cả những gì tôi tranh đấu để có được sẽ ở lại đây một khi tôi vĩnh viễn ra đi.

“Nếu đêm nay linh hồn ngươi sẽ bị đòi lại, vậy những của cải ngươi đã sắm sẵn sẽ thuộc về ai?” –Lu-ca 12:20.

Tuesday, 13 October 2015

LO SỢ


Hội đồng thành phố ở tiểu bang Pennsylvania, Hoa Kỳ, cố gắng ép buộc một người đàn ông tắt đi những ngọn đèn pha ông xử dụng 24/24 để bảo vệ mình khỏi sự tấn công của những người ngoài hành tinh. Ông tin rằng với ánh sáng cực mạnh của những đèn pha đó sẽ xua đi các dĩa bay có ý định đến gần nơi ông cư ngụ.

Láng giềng quận hạt Hermitage cho biết ông Arthur Brown, 78 tuổi, chiếu tất cả đèn pha ông gắn trong hiên nhà của mình suốt ngày lẫn đêm, vì đã nhiều năm rồi ông bị ám ảnh sẽ bị tấn công bởi những loài người từ một nơi nào đó trong vũ trụ. Chịu hết nổi, cư dân trong thành phố phải nhờ đến chính quyền can thiệp.

Quan tòa đã ra lệnh cho ông Brown phải dẹp bỏ các đèn chiếu cực mạnh nầy, bằng không sẽ phạt vạ 500 dollars mỗi ngày nếu ông cứ để rọi suốt đêm làm hàng xóm không ngủ được. Tin tức cho biết ông chưa chịu chấp hành lời cảnh cáo nầy. Cho đến nay số tiền phạt đã lên đến hơn 20.000 dollars.

Chúng ta lắc đầu tức cười khi đọc mẫu tin nầy. Nhưng sự thực có rất nhiều lần chúng ta từng lo lắng quá mức cần thiết. Các nhà tâm lý cho biết có tới 48% những lo lắng không bao giờ xảy ra, 28% nỗi lo thuộc về quá khứ, 16% lo cho sức khỏe mà càng lo sức khỏe càng giảm. Chỉ có 8% lo lắng là hợp lý. Thế nhưng lo thì vẫn cứ lo! Đó là do bản năng của con người mang cảm giác bấp bênh trước số mệnh, yếu đuối bất lực khi đối diện với bao nỗi thăng trầm của đời sống.

Một trong những lời hứa quý báu trong Thánh Kinh mang lại niềm an ủi vô biên cho con dân Chúa qua nhiều thời đại: “Hãy trao mọi điều lo lắng mình cho Ngài, vì Ngài hay săn sóc anh em”. I Phi-e-rơ 5:7.

Bạn đã từng trải qua kinh nghiệm nầy chưa?

Friday, 9 October 2015

CÕI TẠM HAY CÕI ĐỜI ĐỜI?

Những ngày đi du lịch chúng ta thường ngụ trong khách sạn. Dầu ở đó sang trọng, được phục vụ chu đáo, nhưng trong lòng vẫn nhớ nhà. Sau vài ngày, vài tuần trở về, bước vào khung cảnh cũ, ngã mình trên chiếc giường quen thuộc, ta có cảm giác rất thoải mái, thú vị. Người tây phương có thành ngữ “Home sweet home!” là như thế.
Khách sạn là cõi tạm. Nhà là cõi thực. Cuộc đời trên dương thế là cõi tạm. Thiên đường mới là cõi thực, cõi đời đời. Ai cũng biết và đồng ý như vậy. Nhưng nếu hôm nay có lệnh yêu cầu chúng ta nên rời bỏ cõi tạm trần gian để về hưởng nước trời phước hạnh, thử hỏi có mấy người sẵn lòng đồng ý ra đi? Vẫn biết “đời là bể khổ”, “sinh lão bệnh tử”, thế mà ai ai cũng cố bám vào cõi tạm. Hay là chúng ta thích ở khách sạn hơn về nhà?
Tôi còn trẻ quá mà, xin cho thêm thời gian nữa. Tôi mới cưới vợ, sao nỡ bỏ đi? Con cái tôi còn nhỏ quá. Tôi mới vừa xin được một việc làm tốt. Tôi mới mua nhà, cần trả nợ. Tôi muốn sống thêm vài năm nữa để thấy cháu nội, cháu ngoại v.v...là những câu trả lời có sẵn trên môi nếu thiên sứ từ trời xuống bảo “hãy đi với ta”. Đọc phân ưu đăng trên báo có khi chúng ta thấy viết: “Gia đình chúng tôi đau đớn báo tin ông A đã về nước Chúa”. Về với cõi vĩnh hằng phước hạnh sao lại là một nỗi đớn đau?
Mai nầy ta sẽ ra đi,
Người ơi có nhớ có gì nhắn không?
Trăm năm mây trắng bềnh bồng.
Về nơi đã đến mà lòng thảnh thơi. (thơ Luân Hoán).
Tác giả sách Hê-bơ-rơ ghi lại niềm hi vọng của những anh hùng đức tin: “Nhưng họ ham mến một quê hương tốt hơn, tức là quê hương ở trên trời, nên Đức Chúa Trời không hổ thẹn mà xưng mình là Đức Chúa Trời của họ” (Hê-bơ-rơ 11:16).

Một quê hương tốt hơn, vì tại nơi đó có “Chính Đức Chúa Trời sẽ ở với chúng. Ngài sẽ lau ráo hết nước mắt khỏi mắt chúng. Sẽ không có sự chết, cũng không có than khóc, kêu ca, hay là đau đớn nữa, vì những sự thứ nhất đã qua rồi”. (Khải Huyền 21:4).

NHÀ VÔ ĐỊCH 105 TUỔI


Bạn mất bao nhiêu thời gian để chạy hết 100 mét? Một thanh niên trai tráng trung bình mất khoảng 27 giây. Thiếu nữ 34 giây. Nếu chạy 13 đến 14 giây trên 100 mét được coi là rất nhanh. Còn nếu muốn được tham dự Thế Vận Hội Luân-đôn 2016, lực sĩ điền kinh nam phải mất không dưới 10.18 giây. Nữ phải chạy không dưới 11.20 giây.

Nhà điền kinh đang giữ vận tốc nhanh nhất thế giới trên đường chạy 100 mét hiện nay là Usian Bolt: 9.58 giây. Một vận tốc kinh khủng. Anh được gắn danh hiệu “Người Đàn Ông Nhanh Nhất Địa Cầu”.

Nếu sống đến 100 tuổi, Bạn nghĩ mình sẽ mất bao nhiêu giây để chạy quãng đường ngắn ngủi đó? Câu trả lời có thể là: “Tui lúc đó đứng còn không nổi đừng nói chi là chạy”!  

Ngày 23 tháng 9 năm 2015 vừa qua, ông Hidekichi Miyazaki, người Nhật, 105 tuổi, đã chạy 100 mét với thời lượng 42.22 giây! Ông trở thành nhà điền kinh quán quân trên 100 tuổi, được ghi vào sách kỷ lục Guiness.

Ông Miyazaki sinh ngày 22 tháng 9 năm 1910 và cuộc chạy nầy để đánh dấu sinh nhật thứ 105 của ông. Sau đó, ông phát biểu: “Tôi cố gắng chạy trong vòng 35 giây, nhưng khi đang chạy nước mắt dâng trào vì biết mình không chạy được nhanh như ý. Có lẽ tôi đã già. Tôi không mấy hài lòng, nhưng cũng mừng vì đã chạy đến mức cuối”. Những người hâm mộ đã đặt cho ông biệt danh “Golden Bolt” theo tên của nhà vô địch Usian Bolt. Ông nói ước mơ của mình là một ngày nào đó có thể chạy nhanh như... Usian!

Bạn có nghĩ mình đã già quá không?

Sứ đồ Phao-lô tự ví mình như một lực sĩ chạy đua. Không phải một lần, mà là cả cuộc đời. Đến lúc tuổi già, gần về với Chúa, ông dõng dạc tuyên bố: “Ta đã đánh trận tốt lành, đã xong sự chạy, đã giữ được đức tin. Hiện nay mão triều thiên của sự công bình đã để dành cho ta” (II Ti-mô-thê 47-8).


Mong sao mỗi chúng ta đều có thể được như vậy!

Friday, 4 September 2015

ĐỂ CHỨNG MINH LÀ NGƯỜI BÌNH THƯỜNG

Anh Grey Back, một ký giả của tờ báo Toread bên Mỹ sang nước Ý để làm một cuộc phỏng vấn ba người vừa được giải thoát khỏi một bệnh viện tâm thần sau 28 ngày bị vào đó bất đắc dĩ, suýt chút nữa trở thành người điên thật sự.
Câu chuyện xảy ra do một viên tài xế có nhiệm vụ vận chuyển bệnh nhân tâm thần đã sơ ý để cho 3 người trốn thoát. Sợ mất việc, anh ta chạy đến trạm xe bus và bảo mọi người rằng xe nầy chuyên chở miễn phí. Anh dụ được ba chàng thanh niên lên xe và chở thẳng đến nhà thương điên cùng với những bệnh nhân khác.  Và dĩ nhiên trong suốt gần một tháng trời đó, cả ba đều cố hết sức để chứng minh cho các bác sĩ rằng mình là những người bình thường. Họ đã làm thế nào? Xin tạm gọi họ bằng ba tên A, B và C.
Anh A kể lại: Suốt 14 ngày đầu tiên, tôi luôn miệng nói “Quả đất hình tròn. Đó là sự thật”. Tôi nghĩ nói ra một chân lý thì sẽ chứng minh mình là người bình thường. Nhưng sau hai tuần lảm nhảm, y tá bắt tôi lên giường, chích cho một mũi thuốc đau đến tận mây xanh. Tôi đành chịu thua.
Anh B thì kể: Tôi nói với họ tôi là một nhà xã hội học, tôi biết tổng thống Mỹ tên là Obama, thủ tướng Anh là Cameron, thủ tướng Úc là Tony Abbott. Sau khi nghe tôi kể ra hàng loạt nhà lãnh đạo thế giới, họ chích cho tôi một liều thuốc nhức rụng rốn. Từ đó tôi câm miệng luôn, không dám hó hé.
Cuối cùng, nhờ anh C mà cả ba được giải thoát. Anh C đã làm gì trong thời gian đó? Anh cho biết, suốt những ngày bị nhốt trong bệnh viện, anh không biện minh một lời nào cả. Đến giờ ăn, anh đi ăn. Đến giờ ngủ, anh ngủ. Lúc cho đọc sách, anh đọc. Khi họ cạo mặt cho anh, anh cảm ơn. Đến ngày thứ 28, họ cho anh xuất viện. Và nhờ đó, anh đi báo cảnh sát đến để giải cứu các bạn mình.
Thì ra biện pháp tốt nhất để chứng minh là người bình thường, là không cần chứng minh gì cả.
Cách tốt nhất chứng tỏ mình tốt, thông minh hơn người không phải là tự khoe khoang hoặc bêu xấu, bắt bẻ, chỉ trích tha nhân. Nhưng là cứ sống như một người bình thường, không cần chứng minh gì cả! Biết đâu nếp sống bình thường chính là thể hiện một phong cách phi thường!

“Sự sáng các người hãy soi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những việc lành của các ngươi và ngợi khen Cha các ngươi ở trên trời” (Lời của Chúa Cứu Thế).

Wednesday, 2 September 2015

KINH THÁNH GIÀNH CHO NGƯỜI LỚN TUỔI

Nhân ngày Từ Phụ 6.9.2015, xin tặng Quý Bậc Cao Niên 8 câu Thánh Kinh đặc biệt.
1.    Châm-ngôn 20:29:
“Sức lực của gã trai trẻ là vinh hiển của người. Còn tóc bạc là sự tôn trọng của ông già”.
2.    Ê-sai 46:4:
“Cho đến chừng các ngươi già cả, đầu râu tóc bạc, Ta cũng sẽ bồng ẩm các ngươi. Ta đã làm ra, thì Ta sẽ còn gánh vác các ngươi nữa. Ta sẽ bồng ẩm và giải cứu các ngươi”.
3.    Thi-thiên 71:9:
 “Xin Chúa chớ từ bỏ tôi trong thì già cả; cũng đừng lìa khỏi tôi khi sức lực hao mòn”.
4.    Châm-ngôn 23:22:
 “Hãy nghe lời cha đã sinh ra con. Chớ khinh bỉ mẹ con khi người trở nên già yếu”.
5.    Châm-ngôn 17:6:
 “Mão triều thiên của ông già, ấy là con cháu. Còn vinh hiển của con cái, ấy là ông cha”.
6.    Gióp 32:7:
 “Tôi nghĩ rằng: ai đã sống lâu ngày sẽ nói: Số năm cao sẽ dạy sự khôn ngoan”.
7.    Thi-thiên 90:12:
 “Cầu xin Chúa dạy chúng tôi biết đếm các ngày chúng tôi, hầu cho chúng tôi được lòng khôn ngoan”.
8.    Thi-thiên 71:18:

 “Hỡi Đức Giê-hô-va, dầu khi tôi đã già và tóc bạc rồi, xin chớ bỏ tôi. Cho đến chừng tôi đã truyền ra cho dòng dõi sau sức lực của Chúa và quyền thế Chúa cho mỗi người sẽ đến”.

Tuesday, 25 August 2015

THÀNH PHỐ TỐT NHẤT

Giữa tháng 8 vừa qua, tạp chí nổi tiếng The Economist đã bình chọn Melbourne là thành phố tốt nhất để sống trên toàn thế giới. Đây là niềm hãnh diện lớn, vì Melbourne được đứng đầu danh sách trong 5 năm liên tiếp. Các thành phố tốt nhất gồm có Melbourne, Vienna, Vancouver, Toronto, Adelaide và Calvary.
Cuộc đánh giá 140 thành phố khắp thế giới được tính điểm từ 0 đến 100 dựa trên những tiêu chuẩn như mức độ an toàn, y tế, văn hóa, môi trường sống, trình độ giáo dục và cơ sở hạ tầng. Melbourne được đánh giá gần như toàn hảo 97.5 trên 100. Thủ đô Damacus của nước Syria chỉ được 29.3 trên 100. Không ngạc nhiên khi biết ở đây mức độ bất an đáng sợ. Đó là một trong 5 thành phố tệ nhất trên địa cầu: Damacus, Dhaka, Port Moresby, Lagos và Tripoli.
Thủ hiến tiểu bang, ông Daniel Andrew phát biểu: “Kết quả của cuộc bình chọn chứng minh Melbourne là thành phố tốt nhất của mọi điều kiện. Dân chúng nên lấy làm hãnh diện vì không nơi nào đáng sống cho bằng Victoria”. Còn ông thị trưởng Robert Doyle phấn khởi tuyên bố danh hiệu đứng đầu thế giới 5 năm liên tục cho thấy: “Nhiều thành phố tuyệt vời, nhưng Melbourne là số 1”.
Những thủ phủ lừng danh như New York, London, Paris hay Tokyo không lọt vào danh sách đầu bảng, vì dân số quá đông, cơ sở hạ tầng không đáp ứng với nhu cầu và nhất là tình trạng tội phạm. Tỉ lệ sát nhân thấp ở Melbourne là điểm nhấn quan trọng để được đứng đầu trong danh sách. Mặc dầu tội phạm càng ngày càng gia tăng tại Úc, nhưng riêng Melbourne trong năm qua chỉ có 82 vụ giết người, giảm 11.8% so với năm trước.
Dẫu là nơi tốt nhất để sống nhưng cư dân Melbourne hằng ngày vẫn chứng kiến bạo động, trộm cắp, hành hung. Nhiều người vô gia cư, biết bao kẻ khốn cùng, cơ cực, bất an, đau khổ, tuyệt vọng. Giở trang nhật báo, tin buồn, tin xấu tràn ngập. Tin vui không đếm đủ trên đầu ngón tay.
Có khi nào Bạn mơ ước được sống trong một thành phố mà “mọi nước mắt sẽ được lau ráo, không có sự chết, không có than khóc, kêu ca hay là đau đớn”? Nếu có dịp, mời Bạn giở Thánh Kinh và đọc lời mô tả thành phố nầy, rồi Bạn sẽ mãi mãi mong được bước vào làm cư dân của nơi huyền diệu đó.  

Khải Thị đoạn 21 và 22.

Tuesday, 18 August 2015

XẤU QUÁ!

Tháng 9 vừa qua, tại nước Algeria, Phi Châu, đã xảy ra vụ kiện dở khóc dở cười. Một chú rể đâm đơn lên tòa án kiện vợ của mình. Lý do: gương mặt của cô quá xấu khi không trang điểm!
Anh ta trình bày trước quan tòa rằng khi thức dậy sau đêm tân hôn, anh đã hoảng hốt nhìn thấy một người đàn bà xa lạ nằm bên cạnh. Thoạt đầu anh tưởng đó là một tên trộm lẻn vào nhà để ăn cắp, nhưng sau khi định thần một lát, anh nhận ra rằng đó chính là cô vợ mới cưới của mình với gương mặt mộc, không son phấn. Khuôn mặt quá xấu của vợ khiến anh đi từ bất ngờ đến giận dữ. Anh cho rằng cô ta đã lừa dối mình cách trắng trợn.
Trình bày trước tòa, anh nói: “Tôi chẳng thể nào nhận ra mặt thật của cô ấy sau khi rửa sạch lớp trang điểm. Từ khi mới quen nhau cho đến ngày cưới, tôi chưa bao giờ thấy cô ả không trang điểm”. Và anh mô tả những ngày hẹn hò, cô vợ của mình luôn mang dáng vẻ xinh đẹp, hấp dẫn và lôi cuốn. Không ngờ, bây giờ lại là một người đàn bà hoàn toàn khác hẳn khi không  tô môi, vẽ mắt. Anh quá thất vọng, và phẩn nộ, đến nỗi đòi cô dâu mới cưới phải bồi thường cho mình 13.000 bảng Anh (bằng khoảng 30.000 đô Úc).
Anh nói số tiền bồi thường đó không thấm gì với thiệt hại tinh thần và tổn thương tình cảm mà anh đã chịu đựng trong những ngày qua.
Kết quả phiên tòa chưa biết thế nào. Nhưng điều dễ nhận ra nhất là tình cảm của con người lắm khi chỉ do sự lôi cuốn bề ngoài. Khi dung nhan tàn tạ, khi son phấn nhạt nhòa, thì lòng yêu thương cũng từ đó phôi pha. “Còn duyên kẻ đón người đưa. Hết duyên đi sớm về trưa một mình”.
Xin mời Bạn đọc một câu Thánh Kinh. Đây là lời phán của Thiên Chúa: “Dầu núi dời, dầu đồi chuyển, nhưng lòng nhơn từ Ta đối với ngươi chẳng dời khỏi ngươi, lời giao ước bình an của Ta chẳng chuyển. Đức Giê-hô-va, Đấng thương xót ngươi phán vậy”. Ê-sai 54:10.

Bạn có nhận ra sự khác nhau giữa tình yêu của loài người với tình yêu của Thiên Chúa không?

Tuesday, 11 August 2015

HIẾN MÁU

James Harrison - "the man with the golden arm"

Ông James Harrison, một người Úc 78 tuổi, đã làm một việc phi thường: hiến máu 1000 lần trong vòng 60 năm qua. Theo tin của CNN, lượng máu ông cho đi đã cứu sống 2 triệu trẻ em.
Ông kể lại rằng vào năm 1951, lúc được 14 tuổi, ông bị bịnh phải cắt bỏ một lá phổi. Ông đã được cứu sống nhờ nhận được 13 lít máu từ những người xa lạ. Sau ca mổ đó, ông tâm nguyện sẽ làm người hiến máu khi đủ tuổi được phép. Tuy nhiên, không ngờ việc đó đã vượt ra ngoài điều ông tưởng tượng, vì trong máu của ông có một loại kháng thể đặc biệt có thể cứu sống hàng triệu đứa bé mắc chứng bịnh rhesus.
Bệnh rhesus được y khoa Úc phát hiện vào năm 1967, mỗi năm có đến cả ngàn trẻ em chết vì chứng bệnh nầy. Biểu hiệu của căn bịnh nầy là kháng thể của người mẹ tiêu diệt các tế bào máu của thai nhi, xảy đến nhiều trường hợp sẩy thai hoặc em bé sơ sinh bị tổn thương não. Lạ thay trong máu của ông Harrison nầy có một kháng thể đặc biệt tạo ra chất Anti-D nhằm chữa bịnh rhesus. Hội Hồng Thập Tự Úc cho biết nhờ máu của ông đã cứu được 2.400.000 em bé suốt 50 năm qua. Ông là một trong 50 người Úc sở hữu loại kháng thể quý báu nầy.
Cứ ba tuần ông hiến máu một lần. Cho đến tháng 5 năm 2011, sau 57 năm, ông đã đạt kỷ lục hiến máu lần thứ 1000. Harrison nói: “Tôi mong sẽ có người vượt qua kỷ lục nầy. Bởi vì nhờ đó chúng ta sẽ cứu được nhiều mạng sống hơn”.

Viết đến đây tôi liên tưởng đến một dòng máu kỳ diệu có thể thanh tẩy tội lỗi của con người qua mọi thời đại. Dòng máu nầy đã đổ ra trên thập tự giá có tác dụng cứu rỗi thế nhân, dù họ ở bất cứ nơi nào, hoàn cảnh ra sao. Thánh Kinh ghi lại: “Huyết của Đức Chúa Giê-xu, Con Đức Chúa Trời, làm sạch mọi tội chúng ta”. I Giăng 1:7.

Monday, 10 August 2015

THUYẾT BẤT KHẢ TRI LÀ GÌ?

Bàn về sự thực hữu của Đức Chúa Trời, thông thường có hai quan điểm trái ngược nhau: phái hữu thần tin tưởng nơi sự tồn tại của Ngài, phái vô thần bác bỏ niềm tin đó. Nhưng một số người lại còn đề xướng một trường phái thứ ba gọi là “thuyết bất khả tri”.
“Bất khả tri” nghĩa là “không thể hiểu biết”. Người theo thuyết nầy cho rằng sự hiện hữu của Đấng Tạo Hóa là điều không thể chứng minh được. Con người không thể biết có hay không sự tồn tại của Ngài. Cho nên ta không thể nào chứng minh hay bác bỏ sự thật đó.
Thánh Kinh dạy rằng con người phải chấp nhận  bằng đức tin sự thực hữu của Thiên Chúa. Hê-bơ-rơ 11:6 chép “Vả, không có đức tin thì chẳng có thể nào ở cho đẹp ý Ngài; vì kẻ đến gần Đức Chúa Trời phải tin rằng có Đức Chúa Trời, và Ngài là Đấng hay thưởng cho kẻ tìm kiếm Ngài”. Giăng 4:24 mô tả “Đức Chúa Trời là “thần” vì thế loài người không thể nhìn thấy hay chạm vào Ngài. Tuy nhiên, Kinh Thánh quả quyết rằng sự hiện hữu của Đức Chúa Trời có thể được nhìn thấy rõ ràng qua vũ trụ (Thi Thiên 19:1-4), cảm nhận trong thiên nhiên (Rô-ma 1:18-22) và trong tấm lòng của mỗi chúng ta (Truyền Đạo 3:11).
Người theo thuyết Bất Khả Tri không đưa ra một quyết định nào về vai trò của Thiên Chúa trong vũ trụ. Họ không ủng hộ cũng không chống đối niềm tin đó. Họ chỉ nói với trí óc hữu hạn của loài người, không ai khả năng giải thích có hay không có Ngài. Tất cả chỉ là “không thể biết”! Bởi vì loài người là hữu hạn mà Thiên Chúa là vô hạn. Trong Rô-ma 11:33 sứ đồ Phao-lô đã thốt lên rằng: “Ôi, sâu nhiệm thay là sự giàu có, khôn ngoan và thông biết của Đức Chúa Trời. Sự phán xét của Ngài nào ai thấu được, đường nẻo của Ngài nào ai hiểu được”!
Vâng, nghi ngờ là chuyện bình thường. Thật ra có rất nhiều vấn đề trên thế giới mà trí óc loài người không thấu hiểu nổi. Vì thế Thánh Kinh khuyên con người phải đến với Đức Chúa Trời bằng đức tin. Với đức tin chúng ta phó thác vào đường lối diệu kỳ của Ngài. Đức Chúa Trời sẵn sàng bày tỏ chính mình Ngài cho những ai đặt niềm tin cậy nơi Ngài. Lời Ngài khẳng định: “Ở đó ngươi sẽ tìm cầu Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi, và khi nào hết lòng hết ý tìm cầu Ngài thì mới gặp” (Phục Truyền 4:29).


Tuesday, 4 August 2015

BẠN CÓ THỂ TIN VÀO LƯƠNG TÂM?

I Ti-mô-thê 1:5-7
Hãy để lương tâm hướng dẫn cuộc đời. Đây là câu nói được cho là khôn ngoan của mọi người với ý tưởng rằng lương tâm được đặt để trong lòng nhằm giúp ta phân biệt đâu là đúng đâu là sai. Tuy nhiên, sự thật là chúng ta không phải lúc nào cũng có thể tin cậy vào tầng số radar bên trong nầy để làm đúng mọi sự, nhất là đối với người chưa tin Chúa, chưa có Thánh Linh ngự trị trong lòng nhằm bày tỏ chân lý và dẫn dắt vào những quyết định khôn ngoan. Ngay cả người dù có Thần của Chúa cũng phải tránh xa tội lỗi, vì đó là lý do ngăn cản cuộc đời họ đi theo ý hướng tốt đẹp.
Một lương tâm đáng tin cậy được cấu thành bởi sự dạy dỗ thiên thượng. Người tin Chúa xây dựng một tầng số bền vững và nhạy bén bởi ứng dụng chân lý của Ngài vào đời sống. Họ phó thác sự suy nghĩ và hành động của mình nhằm mục đích làm vinh hiển và đẹp lòng Thiên Chúa. Nhờ đó, hễ khi nào những tư tưởng xấu xa hay chọn lựa sai lầm đụng đến tầng số radar, chúng liền đưa ra lời cảnh cáo sắc bén.
Một người với lương tâm đáng tin cậy sẽ có khao khát mãnh liệt vâng phục Đức Chúa Trời. Người đó không chọn lựa theo cảm giác hay tầm nhìn trần tục, mà luôn cầu mong tìm kiếm ý chỉ của Ngài. Nói một cách khác, người đó không chỉ lệ thuộc vào lương tâm mà còn có sự cộng tác hoàn toàn với Thánh Linh trong đời sống hằng ngày, như Lời Chúa hay sự cầu nguyện. Hơn thế nữa, một khi có sự báo động tâm linh xảy đến, người lập tức quay trở lại và khước từ những chọn lựa sai lầm.

Lương tâm không chỉ có mục đích hướng dẫn chúng ta; nó là một công cụ cho sự Dẫn Dắt Thiên Thượng. Thánh Linh không chỉ lên án tội lỗi, mà Ngài còn đem vào tâm hồn chúng ta những nguyên tắc thiêng liêng và soi lối cho ta vào nẻo đường công chính. Ngài xử dụng nhiều công cụ khác nhau để hình thành chúng ta trở nên giống như Cứu Chúa Giê-xu (Rô-ma 8:29).

Tuesday, 28 July 2015

CỘI NGUỒN CỦA VŨ TRỤ THEO QUAN ĐIỂM KHOA HỌC

Người Việt Nam hay người Trung Hoa từ nhỏ đã thấm nhuần triết học Đông phương, đặt nền tảng trên Lão Giáo và Phật Giáo. Hai tôn giáo nầy quan niệm rằng vũ trụ không nhất thiết phải có khởi thủy, nghĩa là không có buổi ban đầu. Vì thế chúng ta ít quan tâm đến câu hỏi vũ trụ từ đâu mà có? Hay ai đã dựng nên trời đất mà con người đang sống trên đó?
Theo nguyên lý Đạo của Lão giáo thì Đạo sinh ra âm dương, khí, trời, đất và muôn loài vạn vật. Khi muôn vật đạt đến tận cùng của phồn thịnh thì sẽ trở về với Đạo. Chu kỳ cứ thế mà tuần hoàn, không có khởi thủy mà cũng không có tận cùng, chung kết.
Phật giáo cũng phủ nhận buổi ban đầu của vũ trụ. Quan điểm của nhà Phật cho rằng thế giới là một bản thể sinh động, không ngừng thay đổi. Không có ban đầu, cũng không có kết thúc, mọi sự xảy ra theo sự luân chuyển của chu kỳ nối tiếp mà họ gọi là luân hồi. Vạn vật sống chết theo sự xoay vần của lục đạo: Thiên đạo (cõi trời), qua Nhân đạo (cõi người), Atula đạo (cõi quỷ thần), Quỷ đạo (cõi ma quỷ), Súc sinh đạo (cõi loài vật) và Địa ngục đạo (cõi trầm luân). Nhờ tu tâm luyện tính, vượt qua kiếp luân hồi, sẽ trở thành Phật ở cõi niết bàn, tức chốn hư vô, nơi mà đau khổ và sự chết sẽ chấm dứt vĩnh viễn.
Chứng minh rằng muôn vật đã được tạo dựng từ buổi ban đầu thật ra không phải là dễ, bởi vì ngoài triết học, tôn giáo, còn có các ngành khoa học đã dẫn đưa nhân loại đến bờ vực vô thần. Xã hội vật chất, tư tưởng cá nhân và niềm tự hào tiến bộ lại càng khiến con người xa cách Đấng Tạo Hóa và khước từ sự hiện hữu của Ngài. Tuy nhiên, nếu chịu khó tìm hiểu cặn kẽ về nguyên lý nhân quả của Đông phương và khoa học Tây phương chúng ta sẽ phải nhìn nhận rằng mọi biến chuyển trong vũ trụ đều có liên quan mật thiết với nhau. Ngay cả những hành tinh xa xôi cũng có thể ảnh hưởng đến sự sống trên quả địa cầu. Tính liên đới, thống nhất của từng thành phần trong vũ trụ đã chứng minh rằng có một bàn tay huyền diệu tạo nên muôn loài vạn vật.
Câu đầu tiên khi mở quyển Thánh Kinh chúng ta đọc rằng “Ban đầu Đức Chúa Trời dựng nên trời đất” (Sáng thế ký 1:1). Dòng chữ khẳng định nầy là nền tảng đức tin của Cơ-đốc-giáo về Đấng Tạo Hóa. Điều kỳ lạ là khi ngành khoa học thiên văn ngày càng phát triển, thì câu Kinh Thánh nầy lại càng được chú ý nhiều hơn. Khi con người có khả năng đi ngược về quá khứ, tìm hiểu sự phát sinh của vũ trụ, thì con người lại càng kinh ngạc về những điều kỳ diệu hình thành để rồi phải trở lại vấn đề nguyên thủy: Ai đã tạo dựng nên tất cả? Hay chỉ là sự ngẫu nhiên mà có? Và càng nghiền ngẫm để tìm câu giải đáp, thì lời kinh văn của Sáng thế ký 1:1 lại trở về trong trí óc của những nhà khoa học “Ban đầu Thiên Chúa dựng nên trời đất”!
Với những viễn vọng kính khổng lồ cùng những kỹ thuật tân kỳ hiện đại, các nhà khoa học ngày nay có thể quan sát đến những thiên hà xa xôi nhất. Kỹ năng của khoa học còn có thể đi ngược thời gian để tìm hiểu lịch sử của vũ trụ. Kỳ diệu thay, càng trở ngược về quá khứ họ lại càng thấy tất cả dường như hội tụ về một điểm chung. Đây là điểm mà các nhà khoa học gọi là điểm thời gian bằng zero (thời gian = 0) và không gian bằng zero (không gian = 0). Điều nầy mặc nhiên công nhận rằng vũ trụ mênh mông có một điểm khởi đầu.
Nghiên cứu về kết cấu của sự sống trên địa cầu cũng cho thấy mọi vật không ngẫu nhiên mà có. Để kết hợp nên sự sống cần ba yếu tố: DNA, RNA và PROTEIN. DNA tựa như một họa đồ để xây một căn nhà, RNA là thợ xây nhà. Và PROTEIN là vật liệu để xây căn nhà đó. Để cấu tạo nên một con người với biết bao tế bào, phong phú và đa dạng, biết suy nghĩ, có tình cảm, lương tri thì hẳn là không phải do một sự kết hợp tình cờ.
Càng khám phá về vũ trụ bao la hoặc về sự kỳ diệu của cơ thể con người, các nhà khoa học lại càng kinh ngạc về sự sắp đặt lạ lùng. Có người lại lấy làm khó chịu khi phải nói lên rằng có một Đấng khởi đầu những kỳ quan của thiên nhiên. Chính nhà bác học Albert Einstein lúc đầu cũng không tin rằng có khởi thủy của vũ trụ, nhưng về sau ông phải công nhận sự sai lầm của mình và cho rằng đó là sự lầm lẫn lớn nhất trong đời ông.  Einstein thốt lên rằng “điều không thể hiểu được về thế giới nầy là tính cách hợp lý của nó” (The incomprehensible of this world is its comprehensibility). Lãnh tụ cộng sản Mao Trạch Đông từng phải ra lệnh bắt giam những nhà khoa học nào dám công khai nhìn nhận có khởi thủy của vũ trụ. Vũ trụ nào phải là một bức tranh hổn độn, không theo quy luật, mà là một tấm chân dung sống động, có giá trị và hợp nhất kỳ lạ dường bao!
Trong những năm tháng cuối cùng của cuộc đời, nhà bác học vĩ đại nhất của thế kỷ 20, Albert Einstein đã viết lên rằng: “Tôn giáo của tôi là việc hạ mình chiêm ngưỡng Đấng có tinh thần tối cao, vô thượng lại bày tỏ chính mình Ngài qua những chi tiết nhỏ nhặt, tầm thường”.

Lê Trần (26/7/2015)