Người viết: Sứ đồ Phao-lô
Nơi viết: Thành phố Cô-rinh-tô.
Năm viết: Khoảng năm 56 sau công nguyên.
Rô-ma là quyển thứ 45 trong toàn bộ Thánh
Kinh. Đây là một trong 14 sách do tôi tớ trung thành của Chúa viết ra trong
suốt cuộc đời phục vụ Ngài. Mặc dầu được liệt kê đầu tiên trong các sách của
ông, nhưng thực ra đây là thư tín thứ sáu, sau những sách Tê-sa-lô-ni-ca
thứ nhất và thứ nhì (năm 52), Ga-la-ti năm 49), Cô-rinh-tô thứ nhất và thứ nhì (đầu
năm 56).
Tên sách: Rô-ma.
Danh từ "Rô-ma" còn được phiên âm là
"La-mã," là tên gọi thủ đô của nước La-mã từ năm 753 trước Công
Nguyên. Ngày nay, Rô-ma là thủ đô của nước Ý-đại-lợi. Thư Rô-ma trong Thánh
Kinh là một lá thư do Sứ đồ Phao-lô gửi cho con dân Chúa tại thành Rô-ma. Ngay
trong câu đầu tiên (1:1), Phao-lô đã xác
nhận mình là người viết lá thư nầy, tuy nhiên, người cầm bút ghi chép lại các
lời của Phao-lô cho thư Rô-ma là Tẹt-tiu (16:22).
Vài dòng về trước giả:
Là một sứ đồ nhưng Phao-lô không thuộc về 12 sứ đồ
từng đi theo Đức Chúa Jesus Christ trong thời gian Ngài thi hành sứ mệnh; trái
lại, khi Hội Thánh mới được thành lập, ông là người tích cực bắt bớ Đạo Chúa.
Phao-lô là người I-sơ-ra-ên, thuộc dòng dõi
Bên-gia-min, theo phái Pha-ri-si, sinh ra tại thành Tạt-sơ (ngày nay thuộc vùng
trung nam nước Thổ-nhĩ-kỳ) vào khoảng năm thứ 2 TCN và tử đạo tại Giê-ru-sa-lem
vào năm 68. Tên trong tiếng Hê-bơ-rơ của ông là Sau-lơ. Tuy được sinh ra ở nước
ngoài nhưng được nuôi dưỡng và lớn lên tại Giê-ru-sa-lem, học về kinh luật, tức
Thánh Kinh Cựu Ước, với một trong những giáo sư nổi tiếng thời bấy giờ là
Ga-ma-li-ên (Công Vụ 22:3). Thánh Kinh không ghi lại việc Phao-lô có kết hôn
hay không. Tuy nhiên, theo phong tục thời bấy giờ, một người Pha-ri-si và thành
viên của Tòa Công Luận phải là một người đã lập gia đình, vì thế, rất có thể
Phao-lô đã lập gia đình nhưng vợ của ông đã qua đời trước khi ông tin nhận
Chúa. Trong thư I Cô-rinh-tô 9:5, Phao-lô có đặt ra câu hỏi là: chẳng phải
ông và các đồng sự của ông cũng có quyền dắt vợ đi khắp các nơi như các sứ đồ
khác, các anh em của Chúa, và Phi-e-rơ hay sao, hàm ý rằng: Phao-lô và các cộng
sự của ông, như Ba-na-ba, Si-la, Ti-mô-thê, Tít đều sống độc thân.
Hội Thánh tại thành phố Rô-ma:
Hội thánh
Rô-ma đã hình thành như thế nào? Có một cộng đồng người Do Thái khá đông sinh
sống tại Rô-ma, ít nhất kể từ lúc quân La-mã chiếm thành Giê-ru-sa-lem vào năm
63 TCN. Công-vụ đoạn 2 nói rõ rằng một số người thuộc cộng đồng ấy
đã có mặt tại Giê-ru-sa-lem vào Lễ Ngũ Tuần năm 33 SCN, và được nghe Tin
Lành. Những người mới cải đạo đã ở lại Giê-ru-sa-lem một thời gian để học hỏi
từ các sứ đồ. Sau đó trở về quê nhà của họ, một số có lẽ đã lưu lạc đến La-mã
vào lúc sự bắt bớ xảy ra tại Giê-ru-sa-lem. Thư của Phao-lô chứa đựng những
thông tin đầu tiên và đáng tin cậy về hội thánh ở Rô-ma. Thư cho thấy rõ hội thánh này bao gồm
người Do Thái lẫn dân ngoại, và lòng sốt sắng của họ đáng được ngợi khen. Ông
nói với họ: “Đức-tin anh em đã đồn khắp cả thế-gian”, và “sự anh em vâng-phục
thì ai ai cũng biết”. Vào thế kỷ thứ hai, sử gia Suetonius viết rằng người Do
Thái đều bị trục xuất khỏi Rô-ma.
Thư gửi cho tín đồ ở thành Rô-ma được viết khi nào và ở đâu? Các
nhà bình luận đều đồng ý rằng thư này được viết tại Hy Lạp, đúng nhất là tại
Cô-rinh-tô, khi Phao-lô ở thành đó vài tháng vào cuối chuyến hành trình truyền
giáo thứ ba. Phao-lô viết thư này tại nhà của Gai-út là một thành viên của hội
thánh Cô-rinh-tô. Rô-ma 15:23, Phao-lô viết: “Chẳng còn có
chi cầm-buộc tôi lại trong các miền nầy nữa”, tức là ở đây không còn khu vực
hoạt động cho ông nữa. Vì thế, trong câu tiếp theo, ông nói đến dự tính phát
triển công việc truyền giáo về phía tây, theo hướng vùng Tây Ban Nha. Có lẽ đây
là một câu mà Phao-lô viết vào cuối chuyến hành trình truyền giáo thứ ba, đầu
năm 56 SCN.
Sơ Lược Sách Rô-ma:
Thư của Phao-lô gửi cho
tín hữu tại Rô-ma để báo tin và chuẩn bị cho cuộc viếng thăm
Hội Thánh tại đó của ông. Phao-lô dự định sẽ thăm và rao giảng Tin Lành tại
Rô-ma một thời gian, và sau đó nhờ sự hỗ trợ của họ ông sẽ đi Tây Ban Nha.
Trong thư, Phao-lô giải thích về niềm tin Cơ Đốc và những áp dụng thực tế trong
đời sống tín hữu. Thư Rô-ma chứa đựng lời giải thích đầy đủ nhất về sứ điệp
Phúc Âm của ông.
Sau lời chào thăm các tín hữu tại Hội Thánh Rô-ma
và nói với họ rằng ông luôn cầu nguyện cho họ, Phao-lô đề cập đến chủ đề của
bức thư: “Trong Tin Lành này, sự công chính của Đức Chúa Trời được bày tỏ từ
đức tin đến đức tin, như có lời chép rằng: Người
công bình sẽ sống bởi đức tin” (1:17).
Sau đó, Phao-lô triển khai chủ đề bày tỏ rằng tất
cả mọi người, cả người Do Thái cũng như người ngoại quốc đều cần được xưng công
chính trước mặt Đức Chúa Trời, vì tất cả nhân loại đều ở dưới quyền lực của tội
lỗi. Con người được xưng công chính là nhờ đức tin nơi Đức Chúa Jêsus Christ.
Tiếp theo, Phao-lô mô tả đời sống mới của tín hữu trong sự liên hiệp với Chúa
Jêsus, tức là kết quả từ mối liên hệ mới với Đức Chúa Trời. Người tin Chúa có
một đời sống bình an và nhờ Đức Thánh Linh mà được giải thoát khỏi quyền lực
của tội lỗi và sự chết.
Trong các chương 5 đến 8, Phao-lô thảo luận về mục
đích của Luật pháp Đức Chúa Trời và quyền năng của Đức Thánh Linh trong đời
sống của tín hữu. Kế đến, vị sứ đồ giải thích về vấn đề làm thế nào cả người Do
Thái lẫn các dân ngoại đều thích hợp với kế hoạch cứu rỗi của Đức Chúa Trời cho
nhân loại. Ông kết luận rằng sự khước từ Chúa Jêsus của người Do Thái là một
phần trong kế hoạch của Đức Chúa Trời nhằm đem toàn thể nhân loại đến với ân
điển cứu rỗi của Đức Chúa Trời trong Chúa Cứu Thế Jêsus. Phao-lô cũng tin rằng
cuối cùng người Do Thái sẽ không còn khước từ Chúa Jêsus nữa.
Phần cuối của bức thư Phao-lô khuyên bảo về nếp
sống của người Cơ Đốc, nhất là phải sống trong tình yêu thương đối với nhau,
cách sống đối với chính quyền, và về vấn đề lương tâm. Phao lô kết thúc bức thư
với lời chào thăm cá nhân và ca ngợi Đức Chúa Trời.
Bố Cục Sách Rô-ma:
Giới thiệu và chủ đề (1:1-17)
Nhu cầu về sự cứu rỗi cho nhân loại (1:18 – 3:20)
Phương cách của Đức Chúa Trời về sự cứu rỗi (3:21 –
4:25)
Đời sống mới trong Đấng Christ (5:1 – 8:39)
Người Do Thái trong kế hoạch cứu rỗi của Đức Chúa
Trời (9:1 – 11:36)
Nếp sống của người Cơ Đốc (12:1 – 15:13)
Kết luận và lời chào (15:14 – 16:27)
Thong Tran
20.1.2016