Wednesday, 27 January 2016

HOLOCAUST

27 tháng 1 hằng năm là Ngày Thế Giới Tưởng Niệm Nạn Nhân Holocaust. Từ năm 2005, cộng đồng quốc tế đã đồng ý lấy ngày nầy làm thời điểm đánh dấu cuộc diệt chủng lớn nhất trong lịch sử nhân loại do Đức Quốc-xã dưới sự lãnh đạo của Adolf Hitler.
Holocaust là một chữ phát xuất từ tiếng Hi-lạp nghĩa là “thiêu đốt toàn bộ”. Chữ nầy được dùng để diễn tả cuộc tàn sát khủng khiếp do Đức Quốc-xã tiến hành, dẫn đến cái chết của khoảng 6 triệu người Do-thái. Thảm họa nầy còn bao gồm 5 triệu nạn nhân khác ở các nước Âu-châu, tổng cộng là 11 triệu người, trong đó có chừng 1 triệu trẻ em vô tội. Chính quyền Hitler đã xử dụng số nhân công 200.000 người để thực hiện cuộc diệt chủng quy mô từ năm 1941 đến 1945.
Kế hoạch khủng bố và tàn sát được tiến hành theo từng giai đoạn mà cao điểm là chiến dịch “Giải pháp cuối cùng cho vấn đề Do-thái”. Mới đầu là xử bắn hàng loạt, sau đó vì số nạn nhân quá nhiều họ nghĩ ra phương án giết người nhanh chóng trong những phòng hơi ngạt. Từ năm 1942, có biết bao chuyến xe lửa đưa người Do-thái đến những “trại hủy diệt” cho đến khi thế chiến thứ hai chấm dứt vào tháng 5 năm 1945.
Di sản Holocaust đã làm cộng đồng thế giới sững sờ kinh tởm. Tất cả đồng thanh hứa rằng sẽ không bao giờ để cho một thảm họa diệt chủng như thế xảy ra cho loài người trên mặt đất. Thế nhưng, nhân loại vẫn dửng dưng chứng kiến hàng triệu người bị tàn sát tại những nơi như Cam-bốt, Bosnia, Sudan, Congo, Syria hay Miến Điện. Ở Trung Đông ngày nay, cả trăm ngàn tín hữu Cơ-đốc bị hãm hiếp, giết hại mà chẳng ai có thể làm gì được.
Holocaust xảy ra không phải ở những lò hơi ngạt, mà phát xuất từ tấm lòng chất chứa hận thù, kỳ thị và coi rẻ sinh mạng của con người. Cho nên việc tưởng niệm hằng năm nhằm nhắc nhở chúng ta rằng phải mạnh dạn đối đầu với bất công xã hội, phải đề cao nền dân chủ bình đẳng, phải bảo đảm quyền làm người dù họ là ai, nguồn gốc ở đâu, thuộc tôn giáo nào hay trình độ giáo dục ra sao.
Triết gia Kurt Tucholsky đã viết rằng: “Một quốc gia không phải chỉ là sức mạnh hay tiềm năng vật chất, mà còn là tấm lòng khoan dung của dân tộc”. Nhờ vào tấm lòng đó họ sống với nhau trong tình thương, bảo bọc lẫn nhau, như người Việt thường nói: “Bầu ơi thương lấy bí cùng. Tuy rằng khác giống, nhưng chung một giàn”.

Chìa khóa ngàn đời để chấm dứt những nỗi thương tâm của nhân loại đã được ghi trong Thánh Kinh: “Hãy có đồng một tâm tình như Đấng Christ đã có” (Phi-líp 2:5). 




Friday, 22 January 2016

KINH ĐIỂN THÁNH KINH

Người nghiên cứu Kinh Thánh có khi bắt gặp một vài từ ngữ xa lạ, không nằm trong nội dung của Thánh Kinh, nhưng có liên hệ mật thiết. Một trong những từ ngữ đó, là “kinh điển”. Chúng ta nghe nói việc kinh điển Thánh Kinh. Nhưng kinh điển là gì? Kinh điển lúc nào? Và kinh điển ra làm sao?
Kinh là kinh sách. Điển là thước mực. Ghép hai chữ nầy lại ta có một định nghĩa đơn sơ: kinh điển là mực thước của sách vở. Từ ngữ “kinh điển” trong tiếng Anh là Canon, phát xuất từ chữ Kanon của Hi-lạp, nghĩa là một cây thẳng hay một cái thước đo. Như thế, chữ Kanon hay kinh điển là một chuẩn mực, một thước đo để từ đó các giáo phụ buổi ban đầu, bởi sự soi dẫn của Chúa, quyết định những sách nào được đưa vào Thánh Kinh để làm khuôn vàng thước ngọc cho giáo hội qua mọi thời đại.
Hội Thánh buổi ban đầu thừa hưởng một di sản quý báu từ Do Thái Giáo là bộ sách Cựu Ước. Và sau đó, bởi ơn thần hựu, họ đã dần dần đúc kết thêm bộ Tân Ước, để chúng ta có Kinh Thánh như ngày nay.
Sự hình thành của Cựu Ước xảy đến sau khi dân Isoraen được trở về từ cuộc lưu đày. Họ tái lập sự thờ phượng và bắt đầu gom góp các sách mà họ đang có để thành lập một thư viện thánh. Bắt đầu từ các sách do Môi-se viết cho đến những lời do tiên tri Xa-cha-ri và Ma-la-chi viết ra trong cuộc lưu đày. Tất cả có 39 sách và tin tưởng một cách chân thành là một tác phẩm do chính Giê-hô-va Đức Chúa Trời ban cho dân sự.
Vào năm 90 sau công nguyên, một hội nghị tổ chức tại Jania, tất cả những Ra-bi hiện diện xác nhận một lần cuối toàn bộ kinh Cựu Ước gồm 39 sách. Đây là một quyết định trọng đại, vị hội nghị chẳng những công nhận kinh điển Cựu Ước mà còn xác quyết rằng thời kỳ hà hơi trên Cựu Ước đã chấm dứt để bắt đầu cho một vận hội mới.
Đối với Tân Ước, quá trình sưu tập và công nhận bắt đầu từ những thế kỷ đầu tiên của giáo hội. Một số sách được công nhận rất sớm như phúc âm Lu-ca hay Công Vụ Các Sứ Đồ mà Phao-lô xem có thẩm quyền như Cựu Ước (I Tim 5:18, Phuc 25:4, Lu-ca 10:7). Phie-e-rơ công nhận các sách Phao-lô viết là ngang hàng với Kinh Thánh (II Phi 3:15-16). Một số sách đã được lưu hành trong các Hội Thánh như kim chỉ nam cho niềm tin (Cô-lô-se 4:16, I Tê 5:27).  Đa số các giáo phụ đều công nhận các sách Tân Ước, ngoại trừ một vài sách gây tranh cãi như Hê-bơ-rơ, Gia-cơ, II Phi-e-rơ và III Giăng.
Việc kinh điển Tân Ước xảy ra đầu tiên vào năm 170 sau công nguyên đã bao gồm tất cả các sách, ngoại trừ những sách nói trên. Hội nghị Laodicea năm 363 quyết định rằng chỉ có Cựu Ước cùng với 27 sách Tân Ước được phép đọc trong các nhà thờ. Hội nghị Hippo năm 393 và hội nghị Carthage năm 397 khẳng định thẩm quyền của 27 sách trong Tân Ước. Sau hội nghị đó, vấn đề kinh điển Tân Ước xem như đã hoàn tất, để giáo hội có một quyển Thánh Kinh toàn bộ Cựu và Tân Ước.
Chúng ta sẽ hỏi, giáo hội lúc ban đầu đã dựa vào những tiêu chuẩn nào để kinh điển Tân Ước? Sau đây là các mực thước để xác định xem các sách thời  Tân Ước có thực sự được sự hà hơi bởi Chúa Thánh Linh:
1) Trước giả có phải là một môn đồ hoặc có sự liên hệ chặt chẽ với các môn đồ không?
2) Sách được chấp nhận rộng rãi bởi các Hội Thánh của Đấng Christ không?
3) Sách có tính hợp nhất về giáo lý và giảng dạy chính thống không?
4) Sách có mang những tiêu chuẩn đạo đức cao và giá trị thuộc linh, phản ánh công việc của Chúa Thánh Linh không?

Một lần nữa, điều cốt yếu mà chúng ta cần nhớ là giáo hội không xác định kinh điển. Kinh Thánh là của Đức Chúa Trời và chính Ngài quyết định những sách đó thuộc trong Kinh Thánh. Vấn đề chỉ là sự truyền đạt của Thiên Chúa cho các giáo phụ về những gì Ngài đã quyết định. Con người tiến hành thu thập dưới sự tể trị của Thiên Chúa. Chính Ngài soi dẫn để cho các hội nghị đầu tiên phải công nhận các sách được Ngài hà hơi, làm nền tảng cho niềm tin Cơ-đốc qua mọi thời đại.

Wednesday, 20 January 2016

SƠ LƯỢC VỀ KINH THÁNH

Kinh Thánh là tập hợp những sách về niềm tin của Do Thái Giáo và Cơ-Đốc-Giáo. Kinh Thánh được khoảng 40 trước giả sống trên ba lục địa Á-châu, Phi-châu và Âu-châu viết trong thời gian 1600 năm, bằng ba ngôn ngữ Hê-bơ-rơ, Hi-lạp và Aramic.
Tác giả thật sự của Kinh Thánh là Đức Chúa Trời. Chính Ngài đã soi dẫn các người viết, gọi là trước giả, cho nên Kinh Thánh được mệnh danh là Lời của Đức Chúa Trời.
Danh từ Kinh Thánh trong tiếng Việt được dịch từ chữ Holy Bible trong tiếng Anh. Chữ Bible phát xuất từ tiếng La-tinh có nghĩa là những cuộc giấy. Về sau danh từ nầy được đồng hóa với chữ “sách” trong ngôn ngữ. Đến thế kỷ thứ 4 sau Công nguyên, chữ sacra (nghĩa là thánh) được thêm vào phía sau chữ sách, nên mới gọi toàn bộ là Quyển Sách Thánh hay Kinh Thánh.
Kinh Thánh được chia thành hai phần chính là Cựu Ước và Tân Ước. Chữ “Ước” ở đây thường hiểu là sách, nhưng thực ra còn mang ý nghĩa là “giao ước”. Vậy, Cựu Ước nghĩa là “giao ước cũ” đặt nền tảng trên luật pháp, còn Tân Ước nghĩa là “giao ước mới”, đặt nền tảng trên sự cứu rỗi của Chúa Cứu Thế Giê-xu. Cựu Ước là Thánh Kinh của Do Thái Giáo, còn Tân Ước ghi lại cuộc đời Chúa Cứu Thế, những lời dạy dỗ của Ngài, lịch sử Hội Thánh và lời tiên tri về những việc sẽ xảy đến trong tương lai.
Cựu Ước của giáo hội Tin Lành có 39 sách và Tân Ước có 27 sách, tổng cộng có 66 sách trong toàn bộ Kinh Thánh. Để thuận tiện cho việc tham khảo, vào thế kỷ 13, một giáo sư của viện đại học Paris là Stephen Langton đã chia Kinh Thánh làm nhiều chương, gọi là đoạn. Về sau ông trở thành giám mục tại Canterury, Anh quốc. Rồi khi phong trào Cải Chánh diễn ra vào thế kỷ 16, ông Robert Stephanus, chủ một nhà in tại Geneva, Thụy Sĩ đã phân chia mỗi đoạn thành nhiều câu. Phương pháp nầy đã áp dụng lần đầu tiên trong bản in bằng tiếng Hi-lạp vào năm 1551, dần dần trở thành thông dụng cho toàn thế giới.
Với cách phân chia như thế, Kinh Thánh của giáo hội Tin Lành có thể ghi nhận như sau: Cựu Ước có 39 sách, 929 đoạn và 33.214 câu. Tân Ước có 27 sách, 260 đoạn, 7.959 câu. Tổng cộng 66 sách, 1.189 đoạn và 41.175 câu.
Kinh Thánh là mặc khải của Thiên Chúa cho nhân loại. Nhờ đó con người hiểu được Ngài là ai, nguồn gốc của vũ trụ, muôn loài, chương trình của Ngài dành cho thế gian hư mất. Kinh Thánh cho biết sự cứu rỗi trong Chúa Giê-xu và làm thế nào con người có thể nhận được ân sủng kỳ diệu của Ngài để sống xứng đáng với địa vị làm con của Thiên Chúa.
Cho đến ngày nay, dầu là một quyển sách cũ đến 3500 năm,  cổ xưa nhất của thế giới, nhưng Kinh Thánh lại là quyển sách được nhiều người đọc nhất. Từ khi nhân loại phát minh máy in vào năm 1815 đến nay đã có chừng 6 tỉ người đọc Kinh Thánh. Trong bảng liệt kê hằng năm, Kinh Thánh luôn luôn là sách bán chạy nhất thế giới, với khoảng 100 triệu quyển mỗi năm. Kinh Thánh đã được dịch ra 2100 thứ ngôn ngữ trên toàn cầu, trong thế gian chưa hề có một quyển sách nào phổ biến rộng rãi được như thế. Thật là một quyển sách kỳ diệu.
Tất cả những điều nầy minh chứng cho Lời của Chúa Cứu Thế trong Ma-thi-ơ 24:35 rằng: “Trời đất sẽ qua, song lời Ta phán, chẳng bao giờ qua đi”.

Lê Trần - 17.1.2016

GIỚI THIỆU THƯ TÍN RÔ-MA

Người viết: Sứ đồ Phao-lô
Nơi viết: Thành phố Cô-rinh-tô.
Năm viết: Khoảng năm 56 sau công nguyên.
Rô-ma là quyển thứ 45 trong toàn bộ Thánh Kinh. Đây là một trong 14 sách do tôi tớ trung thành của Chúa viết ra trong suốt cuộc đời phục vụ Ngài. Mặc dầu được liệt kê đầu tiên trong các sách của ông, nhưng thực ra đây là thư tín thứ sáu, sau những sách Tê-sa-lô-ni-ca thứ nhất và thứ nhì (năm 52), Ga-la-ti năm 49), Cô-rinh-tô thứ nhất và thứ nhì (đầu năm 56).
Tên sách: Rô-ma.
Danh từ "Rô-ma" còn được phiên âm là "La-mã," là tên gọi thủ đô của nước La-mã từ năm 753 trước Công Nguyên. Ngày nay, Rô-ma là thủ đô của nước Ý-đại-lợi. Thư Rô-ma trong Thánh Kinh là một lá thư do Sứ đồ Phao-lô gửi cho con dân Chúa tại thành Rô-ma. Ngay trong câu đầu tiên (1:1),  Phao-lô đã xác nhận mình là người viết lá thư nầy, tuy nhiên, người cầm bút ghi chép lại các lời của Phao-lô cho thư Rô-ma là Tẹt-tiu (16:22).
Vài dòng về trước giả:
Là một sứ đồ nhưng Phao-lô không thuộc về 12 sứ đồ từng đi theo Đức Chúa Jesus Christ trong thời gian Ngài thi hành sứ mệnh; trái lại, khi Hội Thánh mới được thành lập, ông là người tích cực bắt bớ Đạo Chúa.
Phao-lô là người I-sơ-ra-ên, thuộc dòng dõi Bên-gia-min, theo phái Pha-ri-si, sinh ra tại thành Tạt-sơ (ngày nay thuộc vùng trung nam nước Thổ-nhĩ-kỳ) vào khoảng năm thứ 2 TCN và tử đạo tại Giê-ru-sa-lem vào năm 68. Tên trong tiếng Hê-bơ-rơ của ông là Sau-lơ. Tuy được sinh ra ở nước ngoài nhưng được nuôi dưỡng và lớn lên tại Giê-ru-sa-lem, học về kinh luật, tức Thánh Kinh Cựu Ước, với một trong những giáo sư nổi tiếng thời bấy giờ là Ga-ma-li-ên (Công Vụ 22:3). Thánh Kinh không ghi lại việc Phao-lô có kết hôn hay không. Tuy nhiên, theo phong tục thời bấy giờ, một người Pha-ri-si và thành viên của Tòa Công Luận phải là một người đã lập gia đình, vì thế, rất có thể Phao-lô đã lập gia đình nhưng vợ của ông đã qua đời trước khi ông tin nhận Chúa. Trong thư I Cô-rinh-tô 9:5, Phao-lô có đặt ra câu hỏi là: chẳng phải ông và các đồng sự của ông cũng có quyền dắt vợ đi khắp các nơi như các sứ đồ khác, các anh em của Chúa, và Phi-e-rơ hay sao, hàm ý rằng: Phao-lô và các cộng sự của ông, như Ba-na-ba, Si-la, Ti-mô-thê, Tít đều sống độc thân.
Hội Thánh tại thành phố Rô-ma:
 Hội thánh Rô-ma đã hình thành như thế nào? Có một cộng đồng người Do Thái khá đông sinh sống tại Rô-ma, ít nhất kể từ lúc quân La-mã chiếm thành Giê-ru-sa-lem vào năm 63 TCN. Công-vụ đoạn 2 nói rõ rằng một số người thuộc cộng đồng ấy đã có mặt tại Giê-ru-sa-lem vào Lễ Ngũ Tuần năm 33 SCN, và được nghe Tin Lành. Những người mới cải đạo đã ở lại Giê-ru-sa-lem một thời gian để học hỏi từ các sứ đồ. Sau đó trở về quê nhà của họ, một số có lẽ đã lưu lạc đến La-mã vào lúc sự bắt bớ xảy ra tại Giê-ru-sa-lem. Thư của Phao-lô chứa đựng những thông tin đầu tiên và đáng tin cậy về hội thánh ở Rô-ma. Thư cho thấy rõ hội thánh này bao gồm người Do Thái lẫn dân ngoại, và lòng sốt sắng của họ đáng được ngợi khen. Ông nói với họ: “Đức-tin anh em đã đồn khắp cả thế-gian”, và “sự anh em vâng-phục thì ai ai cũng biết”. Vào thế kỷ thứ hai, sử gia Suetonius viết rằng người Do Thái đều bị trục xuất khỏi Rô-ma.

Thư gửi cho tín đồ ở thành Rô-ma được viết khi nào và ở đâu? Các nhà bình luận đều đồng ý rằng thư này được viết tại Hy Lạp, đúng nhất là tại Cô-rinh-tô, khi Phao-lô ở thành đó vài tháng vào cuối chuyến hành trình truyền giáo thứ ba. Phao-lô viết thư này tại nhà của Gai-út là một thành viên của hội thánh Cô-rinh-tô. Rô-ma 15:23, Phao-lô viết: “Chẳng còn có chi cầm-buộc tôi lại trong các miền nầy nữa”, tức là ở đây không còn khu vực hoạt động cho ông nữa. Vì thế, trong câu tiếp theo, ông nói đến dự tính phát triển công việc truyền giáo về phía tây, theo hướng vùng Tây Ban Nha. Có lẽ đây là một câu mà Phao-lô viết vào cuối chuyến hành trình truyền giáo thứ ba, đầu năm 56 SCN.

Sơ Lược Sách Rô-ma:
Thư của Phao-lô gửi cho tín hữu tại Rô-ma để báo tin và chuẩn bị cho cuộc viếng thăm Hội Thánh tại đó của ông. Phao-lô dự định sẽ thăm và rao giảng Tin Lành tại Rô-ma một thời gian, và sau đó nhờ sự hỗ trợ của họ ông sẽ đi Tây Ban Nha. Trong thư, Phao-lô giải thích về niềm tin Cơ Đốc và những áp dụng thực tế trong đời sống tín hữu. Thư Rô-ma chứa đựng lời giải thích đầy đủ nhất về sứ điệp Phúc Âm của ông.
Sau lời chào thăm các tín hữu tại Hội Thánh Rô-ma và nói với họ rằng ông luôn cầu nguyện cho họ, Phao-lô đề cập đến chủ đề của bức thư: “Trong Tin Lành này, sự công chính của Đức Chúa Trời được bày tỏ từ đức tin đến đức tin, như có lời chép rằng: Người công bình sẽ sống bởi đức tin” (1:17).
Sau đó, Phao-lô triển khai chủ đề bày tỏ rằng tất cả mọi người, cả người Do Thái cũng như người ngoại quốc đều cần được xưng công chính trước mặt Đức Chúa Trời, vì tất cả nhân loại đều ở dưới quyền lực của tội lỗi. Con người được xưng công chính là nhờ đức tin nơi Đức Chúa Jêsus Christ. Tiếp theo, Phao-lô mô tả đời sống mới của tín hữu trong sự liên hiệp với Chúa Jêsus, tức là kết quả từ mối liên hệ mới với Đức Chúa Trời. Người tin Chúa có một đời sống bình an và nhờ Đức Thánh Linh mà được giải thoát khỏi quyền lực của tội lỗi và sự chết.
Trong các chương 5 đến 8, Phao-lô thảo luận về mục đích của Luật pháp Đức Chúa Trời và quyền năng của Đức Thánh Linh trong đời sống của tín hữu. Kế đến, vị sứ đồ giải thích về vấn đề làm thế nào cả người Do Thái lẫn các dân ngoại đều thích hợp với kế hoạch cứu rỗi của Đức Chúa Trời cho nhân loại. Ông kết luận rằng sự khước từ Chúa Jêsus của người Do Thái là một phần trong kế hoạch của Đức Chúa Trời nhằm đem toàn thể nhân loại đến với ân điển cứu rỗi của Đức Chúa Trời trong Chúa Cứu Thế Jêsus. Phao-lô cũng tin rằng cuối cùng người Do Thái sẽ không còn khước từ Chúa Jêsus nữa.
Phần cuối của bức thư Phao-lô khuyên bảo về nếp sống của người Cơ Đốc, nhất là phải sống trong tình yêu thương đối với nhau, cách sống đối với chính quyền, và về vấn đề lương tâm. Phao lô kết thúc bức thư với lời chào thăm cá nhân và ca ngợi Đức Chúa Trời.

Bố Cục Sách Rô-ma:
Giới thiệu và chủ đề (1:1-17)
Nhu cầu về sự cứu rỗi cho nhân loại (1:18 – 3:20)
Phương cách của Đức Chúa Trời về sự cứu rỗi (3:21 – 4:25)
Đời sống mới trong Đấng Christ (5:1 – 8:39)
Người Do Thái trong kế hoạch cứu rỗi của Đức Chúa Trời (9:1 – 11:36)
Nếp sống của người Cơ Đốc (12:1 – 15:13)

Kết luận và lời chào (15:14 – 16:27)

Thong Tran
20.1.2016

Tuesday, 19 January 2016

DỰ TANG LỄ CỦA CHÍNH MÌNH

Ở Đại Hàn càng ngày càng có nhiều trường học  mở ra nhằm dạy cho nhân viên của các công ty tự trải nghiệm cái chết của mình.
Trong một căn phòng lớn, người tham dự mặc áo dài trắng. Trước tiên họ viết chúc thư cho thân nhân. Nhiều người không thể kìm lòng, bật khóc nức nở.  Sau đó, bước vào quan tài bằng gỗ, nằm xuống, tay ôm di ảnh của chính mình. Một người bận đồ đen, đại diện cho thần chết đóng kín nắp quan tài lại. Họ sẽ ở trong bóng tối dày đặc đó khoảng 10 phút để tự trải nghiệm sự chết và suy gẫm giá trị của cuộc đời.
Trước khi “chết”, họ được cho xem video của những người bất hạnh nhưng không ngừng đấu tranh để tồn tại. Như các bệnh nhân ung thư chống chọi trong đau đớn, hay những người khuyết tật , không có tay chân, vẫn luôn vươn lên để sống cách bình thường. Tất cả điều nầy chỉ nhằm khuyến khích họ biết trân quý đời sống và tranh đấu vượt khỏi những áp lực hằng ngày.
 “Sau khi trải nghiệm cảm giác nằm trong quan tài, tôi nhận ra rằng tôi cần thay đổi cách sống. Tôi chợt thấy mình đã mắc rất nhiều sai lầm. Giờ đây, tôi muốn dù làm bất cứ việc gì cũng phải tận lực và dành nhiều thời gian hơn cho gia đình” - Một người chia sẻ sau khi giả chết.
Thống kê cho biết, mỗi ngày tại nước nầy có khoảng 40 người tìm đến cái chết vì không chịu nổi áp lực cạnh tranh xã hội.  Hàn quốc có số người tự sát  thứ hai trên thế giới. Từ một quốc gia nghèo nhất, chỉ sau vài thập niên đã vươn lên thành cường quốc kinh tế thứ 12 trên toàn cầu. Sự bùng nổ tài chánh cũng kéo theo nhiều hệ lụy,  chủ nghĩa cá nhân được đề cao,  truyền thống gia đình tan rã, nhiều người mang tâm trạng cô lập, áp lực cạnh tranh trong công sở rất gay gắt, các bậc lớn tuổi cảm thấy  trở thành vô dụng,  gánh nặng cho con cháu. Từ đó, nguy cơ tự sát cao gấp 4 lần những quốc gia phát triển khác.
Trước tình trạng trên, nhiều tổ chức ở Hàn Quốc đưa ra cách ứng phó kỳ lạ nhưng có tác dụng đáng khích lệ: cho đối tượng muốn tự sát “trải nghiệm cái chết” để họ yêu đời hơn, không còn ý nghĩ từ bỏ cuộc sống nữa.

Hai ngàn năm trước, có một người trải nghiệm cái chết kỳ diệu, không phải do khổ lụy của cuộc đời, nhưng bởi một tình yêu thiên thượng. Sau đó, ông kể lại: “Tôi đã bị đóng đinh vào thập tự giá với Đấng Christ, mà tôi sống, không phải là tôi sống nữa, nhưng Đấng Christ sống trong tôi; nay tôi còn sống trong xác thịt, ấy là tôi sống trong đức tin của Con Đức Chúa Trời, là Đấng đã yêu tôi, và đã phó chính mình Ngài vì tôi”. (Ga-la-ti 2:20).

CHƯA TRẢ NỢ, KHÔNG ĐƯỢC CHẾT!

Ở tỉnh Bắc Giang, Việt Nam, có một bà cụ tên Nguyễn Thị Lê, bị tàn tật từ lúc còn trẻ, thuộc vào diện gia đình nghèo. Chẳng những thế, bà còn phải nuôi hai người em cũng là phế nhân như mình. Đầu tháng 11 năm 2015, bà qua đời. Nhưng chính quyền địa phương không chịu làm giấy khai tử cho bà. Họ không cho bà chết, vì bà còn nợ chính phủ số tiền 1 triệu 700 ngàn tiền Việt Nam (tức khoảng gần 90 đô Úc).
Những món nợ của bà gồm có: thuế đất nông nghiệp, tiền đóng góp an ninh quốc phòng, tiền ủng hộ đồng bào lũ lụt, tiền giúp trẻ em nghèo, tiền đóng góp vào quỹ khuyến học, tiền cho những lễ hội mùa xuân v.v...Cho dù bà còn sống đến 10 năm nữa cũng không biết đào tiền ở đâu ra mà trả cho chính phủ. Bây giờ bà chết, dĩ nhiên là họ không chịu. Đâu phải ai muốn chết là chết? Cho nên địa phương không cho phát loa thông báo sự mãn phần của bà, không cho mượn kèn trống, xe tang dù là gia đình khốn khó, không cho làm giấy chứng tử. Họ muốn bà phải sống lại để trả xong những khoản tiền còn thiếu mới được thảnh thơi về bên kia thế giới. Lý do đưa ra rất là hợp lý. Ông trưởng thôn nói: “Nếu tha cho bà, thì sợ người khác phân bì. Trước khi quyết định, tôi có hỏi ý kiến cấp trên, họ đều nhất trí không tha”. Thật là ‘công pháp bất vị thân’. Người anh trai của bà phân trần với nhà báo: “Em gái tôi qua đời, nhưng chính quyền địa phương không cho nó được chết như bao người khác!”.
Sắp tới đây nhà nước sẽ xóa khoảng nợ thuế 1300 tỉ cho những doanh nhân thua lỗ, nhưng bà Nguyễn Thị Lê thi phải sống để tiếp tục trả nợ!

Đây không phải là một chuyện mới. Hai ngàn năm trước Chúa Giê-xu đã dạy các môn đệ bài cầu nguyện, trong đó có câu: “Xin tha thứ hết lỗi lầm chúng con, như chúng con cũng tha lỗi cho người”. Trong nguyên bản là “Xin tha nợ cho chúng con, cũng như chúng con tha kẻ mắc nợ mình”. Chúng ta có biết bao món nợ, Thiên Chúa yêu thương và tha thứ hết. Nhưng đối với anh chị em thì bắt bẻ từng ly. Có ai làm điều gì sai với mình, thì dù người đó chết rồi cũng không tha, dẫu biết rằng “nghĩa tử là nghĩa tận”. Hãy đọc một chuyện ngụ ngôn, được chép trong phúc âm Ma-thi-ơ 18:23-35 với lời kết luận rất thẳng thắn: “Nếu các ngươi không hết lòng tha nợ cho anh em mình, thì Cha ở trên trời cũng đối đãi với các ngươi như vậy!”.

Thursday, 7 January 2016

TÌNH NGƯỜI

Sau cuộc khủng bố tại Paris, ngày 17 tháng 11 năm 2015, một thanh niên người Pháp đến giữa quãng trường Place de République, bịt mắt lại, dang tay ra, bên cạnh để một tấm bảng viết: “Tôi là người Hồi giáo. Người ta cho tôi là phần tử khủng bố. Nhưng tôi tin bạn, bạn có tin tôi không? Nếu bạn tin, hãy cho tôi một cái ôm”. Nhiều khách qua đường dừng lại. Một số người đã ôm chàng trai Pháp theo đạo Hồi nầy trong những giọt nước mắt.
Có thể bạn cho rằng anh thanh niên nầy chỉ đóng kịch để làm vơi đi sự căm thù đang sôi sục. Nhưng xin mời đọc một bản tin dưới đây được báo The Herald Sun đăng vào ngày 23 tháng 12 năm 2015.
Một chiếc xe bus đang chạy về thủ đô nước Kenya bị quân khủng bố Hồi-giáo thuộc phái Somali Shebab tấn công bằng súng, giết chết 2 người. Sau đó chúng tràn lên xe và ra lệnh những tín đồ Hồi-giáo phải tách riêng những người theo Cơ-đốc-giáo để khỏi bị giết chung. Nhưng tất cả hành khách đều từ chối làm theo mệnh lệnh. Họ hết sức cố gắng che dấu sự khác biệt để những anh chị em tin Chúa không bị tàn sát.
Anh Mohamud Abdi, một trong những hành khách trên xe kể lại rằng: “Chúng tôi đã đưa cho các bạn Cơ-đốc những trang phục đạo Hồi mặc vào để quân khủng bố không thể nhận diện dễ dàng. Chúng tôi đã liên kết với nhau thật là chặt chẽ trong hoàn cảnh kinh khủng nầy. Các chiến binh hăm dọa sẽ bắn chết nếu chúng tôi không chỉ ra các Cơ-đốc-nhân, nhưng tất cả kiên quyết từ chối nhằm bảo vệ đồng bào mình. Cuối cùng thì họ đành chịu thua và rời khỏi xe chúng tôi”.
Khi được tin nầy, ông Joseph Nkaissery, bộ trưởng nội vụ Kenya đã phát biểu: “Những giáo hữu Hồi-giáo trên chuyến xe đã gửi đi một thông điệp quan trọng nói lên tinh thần hợp nhất của nhân loại. Vì tất cả chúng tôi đều là dân tộc Kenya”. Đối diện với tình huống sinh tử, những tín đồ Hồi-giáo đó đã xử sự cách can đảm lạ lùng, thật đáng khâm phục. Mấy ai làm được!

Tâm tình đó nhắc nhở chúng ta bài học ngàn đời: “Tại đây không còn kỳ thị chủng tộc hay chia rẽ vì hình thức lễ nghi tôn giáo, không còn phân biệt trình độ giáo dục hay giai cấp xã hội. Vì có Chúa Cứu Thế mới là điều quan trọng. Ngài là tất cả và trong tất cả” (Cô-lô-se 3:11-Bản Diễn Ý).