Tuesday, 31 May 2016

PHƯỚC HẠNH DIỆU KỲ

Phục truyền 32:10-13

Ngài tìm gặp dân mình trong sa mạc
Chốn rừng thiêng, nơi hoang lạnh bơ vơ
Ngày dẫn đưa, đêm trìu mến vô bờ
Vỗ về tựa con ngươi trong mắt Chúa.

Trên trời cao đôi phượng hoàng nhảy múa
Dạy con thơ tung gió vượt trùng khơi
Giữa hiểm nguy xòe cánh đón kịp thời
Khi mệt mỏi rã rời lao vực thẳm.

Một mình Chúa hằng dắt dìu bồng ẳm
Ban rau xanh, trái ngọt chốn đồng hoang
Từ đá kia dòng mật ngọt tuôn tràn
Ôi tình Chúa vô vàn không kể xiết!

Friday, 27 May 2016

ĐẠI HỒNG THỦY LÀ SỰ THẬT LỊCH SỬ HAY CHỈ LÀ HUYỀN THOẠI?

Trận Đại Hồng Thủy xảy ra trong thời Nô-ê mà sách Sáng Thế Ký đã giành trọn 4 chương để ghi lại là một biến cố có thật trong lịch sử, hay chỉ là một câu chuyện huyền thoại?
Môi-se ghi lại sự kiện nầy trong Sáng Thế Ký đoạn 7: “Nước lụt phủ mặt đất bốn mươi ngày...Trên mặt đất nước lớn và dâng thêm nhiều lắm, hết thảy những ngọn núi cao ở dưới trời đều bị ngập...Mọi loài ở trên mặt đất đều bị hủy diệt, từ loài người cho đến loài thú, loài côn trùng cùng loài chim trời. Nước dâng lên trên mặt đất trọn một trăm năm mươi ngày” (câu 17-24).
Câu chuyện cho biết trận Đại Hồng Thủy bắt đầu “năm sáu trăm của đời Nô-ê” (Sáng 7:11) mà các nhà nghiên cứu Thánh Kinh tính ra vào năm 2370 trước công nguyên, nghĩa là cách nay gần 4400 năm. Nước lũ khởi sự đổ xuống vào “tháng hai, ngày mười bảy” và tiếp tục đổ xuống trong 40 ngày 40 đêm, tức vào hai tháng 11 và 12 của năm 2370 trước công nguyên. Từ lúc nước tràn ngập trái đất cho đến khi rút xuống là 150 ngày, tức kéo dài 5 tháng. Chiếc tàu của Nô-ê tấp trên rặng núi A-ra-rát vào tháng 4 năm 2369 TCN. Tính ra Nô-ê và gia đình đã ở trong tàu tổng cộng 370 ngày. Gia đình ông rời khỏi tàu vào giữa tháng 11 năm 2369 TCN.
Những gì đã ghi chép cách chính xác từng chi tiết và có thể tính toán thời gian cho chúng ta thấy rằng nhà lãnh đạo Môi-se đã dựa vào một tài liệu chính xác để viết nên những trang sử của Sáng Thế Ký. Ông trình bày biến cố nầy bằng sự thật, chứ không phải kể lại một chuyện thần thoại.
Mới đây, người ta chụp được một tấm ảnh trên núi A-ra-rát có hình dạng như một chiếc tàu và cho đó là tàu của Nô-ê. Tuy nhiên, đó chỉ là một bằng cớ còn nhiều tranh cãi, vì chưa ai thật sự kiểm nghiệm cách tường tận. Điều chúng ta có thể quả quyết theo khoa học, là nước biển chiếm 71% bề mặt trái đất, tức chiếm hai phần ba địa cầu chúng ta đang ở. Và nếu các băng hà ở địa cực tan ra, mực nước biển có thể dâng lên, che phủ tất cả mọi thành phố trên trái đất. Các nhà địa chất học nghiên cứu về vùng tây bắc Hoa-kỳ cho biết có đến 100 trận lụt đã từng quét qua vùng nầy. Một trong những trận lụt đó có bức tường nước cao đến 600 mét, di chuyển với vận tốc 105 cây số/giờ và mang theo 2 tỉ tấn nước. Nhiều kết quả tương tự cũng khiến các nhà khoa học tin rằng trận lụt toàn cầu rất có thể đã từng xảy đến.
Với Thánh Kinh, chúng ta có thể đọc thấy nhiều trước giả về sau nhắc đến Nô-ê và trận lụt kinh hoàng đó.
1.Sử gia E-xơ-ra nhắc đến Nô-ê và các con trai trong gia phả của dân I-sơ-ra-ên –I Sử 1:4-17.
2.Bác sĩ Lu-ca kể tên Nô-ê trong bảng liệt kê tổ phụ của Chúa Giê-xu –Lu-cả:36.
3.Sứ đồ Phi-e-rơ nói nhiều đến trận Nước Lụt trong các thư tín gủi cho Hội Thánh –II Phiero 2:5; 3:5-6.
4.Trước giả sách Hê-bơ-rơ đề cao đức tin mạnh mẽ của Nô-ê khi đóng tàu cứu gia đình mình –Hê-bơ-rơ 11:7.
Điều đó chứng minh rằng họ hoàn toàn công nhận những gì Môi-se tường thuật về trận Đại Hồng Thủy.
Nhưng trên hết, chính Cứu Chúa Giê-xu, Đấng Tạo Hóa vũ trụ. Ngài hẳn đã chứng kiến trận lụt xảy ra và chính Ngài xác nhận sự thật nầy khi phán rằng: “Trong đời Nô-ê thể nào, khi Con Người đến cũng thể ấy (Ma-thi-ơ 24:37-39). Chúng ta tự hỏi có khi nào Chúa Giê-xu dùng một câu chuyện hoang đường để cảnh cáo chúng ta chăng? Chắc chắn là không! Ngài là Đấng Chân Thật và lời của Ngài là Chân Lý.

Qua cơn Đại Hồng Thủy, Thiên Chúa đã dạy dân sự Ngài lòng thương xót đời đời. Tiên tri Ê-sai viết một lời rất cảm động trong sách của ông ở đoạn 54: “Ta đã bỏ ngươi trong một lát, nhưng Ta sẽ lấy lòng thương xót cả thể mà thâu ngươi lại. Trong cơn nóng giận, Ta ẩn mặt với ngươi một lúc, nhưng vì lòng nhơn từ vô cùng, Ta sẽ thương đến ngươi, Đấng cứu chuộc ngươi là Đức Giê-hô-va phán vậy. Điều đó cũng như nước lụt về đời Nô-ê, như khi Ta thề rằng nước lụt về đời Nô-ê sẽ không tràn ra trên đất nữa, thì Ta cũng thề rằng Ta sẽ không giận ngươi nữa, và cũng không trách phạt ngươi. Dầu núi dời, dầu đồi chuyển, nhưng lòng nhơn từ Ta đối với ngươi chẳng dời khỏi ngươi, lời giao ước bình an của Ta chẳng chuyển, Đức Giê-hô-va là Đấng thương xót ngươi, phán vậy”. (54:7-10)

Wednesday, 25 May 2016

DẤU CHÂN TRÊN CÁT

Mơ thấy Chúa đồng hành trên biển vắng,
Ánh chiều tà thoáng hiện cảnh thời gian.
Ngoảnh nhìn sau hai dấu chân trên cát,
Một của Ngài, và một của riêng tôi.

Tuổi xế chiều vọng lại tháng ngày trôi
Trong khoảnh khắc tôi ngỡ ngàng thất vọng
Lúc buồn khổ, giữa muôn trùng đau đớn
Ngài đâu rồi, sao chỉ dấu chân tôi?

Lòng bối rối, tôi thưa cùng Cứu Chúa:
“Ngài hứa rằng Ta sẽ mãi bên con
Nhưng bỗng dưng trong cảnh ngộ tột cùng
Con đơn độc một mình trên biển vắng?”

Trong êm dịu Ngài thì thầm phán bảo:
“Dẫu bình minh hay những buổi chiều rơi
Giữa nụ cười hay giòng lệ không lời
Trong thử thách hay tháng ngày hiu quạnh

Hãy yên lòng, luôn có Ta bên cạnh
Sẽ cùng con trên vạn nẻo đường đời.
Lúc con nhìn chỉ một dấu chân thôi
Ấy là lúc Ta ẩm bồng con đó”.

(Lê Trần dịch bài thơ “Footprint in the Sand” của Mary Stevenson – 1936)



Monday, 23 May 2016

KHÍCH LỆ VÀ NÂNG ĐỠ

“Thưa anh chị em, chúng tôi xin anh chị em khích lệ những người ngã lòng, nâng đỡ những người yếu đuối”. (I Tê-sa-lô-ni-ca 5:14 – BD 2011).
Ta có thể tìm gặp những người ngã lòng, đau khổ, thất vọng ở mọi nơi. Nhưng nhiều khi không biết phải làm gì, phải nói thế nào để có thể làm vơi đi những đau đớn mà anh chị em đang chịu đựng. Bài viết nầy xin được nêu lên một vài phương cách thực tiễn nhằm khích lệ và an ủi tha nhân.
1.     Hiện diện. Nhiều lúc phương thức tốt nhất để giúp đỡ đơn giản là sự có mặt của bạn. Giữa hoàn cảnh đen tối, không phải chúng ta cần một người để giải quyết mọi nan đề, mà mong có một người bạn tâm giao.
2.     Lắng nghe. Biết lắng nghe nỗi lòng tha nhân là một nghệ thuật đòi hỏi tánh kiên nhẫn. Những tâm hồn đau thương luôn cần một người biết lắng nghe để họ thổ lộ những gánh nặng trong cuộc đời.
3.     Chia xẻ. Phô trương rằng mình nhà một nhà tâm lý có thể giải quyết mọi khó khăn chẳng ích lợi gì. Thay vào đó hãy chia xẻ với họ những đau khổ và thất bại mà mình từng trải là cách giúp đỡ thực tiễn nhất.
4.     Cầu nguyện. Có một quyền lực mầu nhiệm khi ta đem tên của anh chị em mình trình dâng trước Thiên Chúa. Khi biết rằng có ai đó đang cầu thay cho họ, sự chữa lành tâm linh sẽ lập tức khởi đầu.
5.     Ban cho. Sự giúp đỡ có khi còn đi xa hơn là chỉ một cái bắt tay hay một lần vỗ vai an ủi. Có thể người ấy đang cần một ít tiền bạc hay nhu cầu vật chất. Tấm chân tình của chúng ta được đo lường bằng việc mở rộng bàn tay cứu giúp anh chị em trong hoàn cảnh khó khăn.
6.     Thay thế. Người có lòng muốn chia xẻ gánh nặng của anh chị em không phải chỉ khuyên nhủ, an ủi, mà là bước vào cùng kê vai gánh vác. Đó chính là ta học theo gương của Chúa Giê-xu. Ngài đã từng thay thế cho chúng ta trên thập tự giá!

Chúa Giê-xu đã mang lấy tất cả tội lỗi và sầu thảm của chúng ta qua sự chết của Ngài. Nhờ đó mà chúng ta có thể sống an bình trong sự tương giao đời đời phước hạnh với Cha Thiên Thượng. Nếu Ngài đã làm điều đó cho chúng ta, lẽ nào chúng ta có thể nói rằng: “Tôi bận rộn quá, không có thì giờ để khích lệ, nâng đỡ anh chị em của tôi”?

ĐI NHÀ THỜ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỨC KHỎE

Hôm 17 tháng 5 năm 2016, nhật báo The Herald Sun đăng mẫu tin rằng có một cuộc nghiên cứu kéo dài 16 năm tại Mỹ đã cho biết việc đi lễ thường xuyên ở nhà thờ là tốt cho sức khỏe phụ nữ và giảm nguy cơ chết sớm.
Mặc dù các nhà thực hiện cuộc nghiên cứu nầy chưa tìm ra lý do, nhưng sau nhiều năm theo dõi họ biết rằng các bà đến nhà thờ mỗi tuần một lần có ít nguy cơ hơn trước sự chết, còn nếu tham dự nhiều hơn sẽ giảm đến 33 phần trăm so với những người không bao giờ đặt chân đến giáo đường. Họ đoán rằng có lẽ chính là do tinh thần lạc quan và mối liên hệ cộng đồng làm giảm áp lực tinh thần và sự chán chường, tuyệt vọng.
Trong bài khảo luận của bác sĩ Nguyễn Văn Đức, ông đã viết: “Gần như mọi cuộc khảo cứu y học về vấn đề tôn giáo đều thấy rằng niềm tin giữ một vai trò có lợi cho sức khỏe”. Ông nêu lên thí dụ, những người tin theo đạo thường có áp huyết thấp hơn, ít bị biến chứng do cao huyết gây ra. Ông cũng so sánh giữa hai người hút thuốc lá.  Người nghiện thuốc không tin vào tôn giáo dễ bị cao áp huyết 7 lần nhiều hơn những người hút thuốc nhưng có niềm tin. Và ngay cả người hút thuốc mà ít đến thờ phượng cũng có huyết áp cao gấp 4 lần người hút thuốc mà vẫn đi nhà thờ đều đặn!
Bác sĩ Đức còn cho biết trong cơn tuyệt vọng, người không đi nhà thờ có khuynh hướng tự tử gấp 4 lần những con chiên thường xuyên dự lễ. Tâm thức lạc quan của người có đạo ảnh hưởng rất nhiều đến sức khỏe, nhất là những khi họ lâm trọng bịnh. Niềm tin hỗ trợ tinh thần và hỗ trợ xã hội, giúp cho người ta nhìn vào những thử thách cuộc đời với thái độ lạc quan, nhờ đó mà sức khỏe cũng dễ dàng hồi phục.

Phao-lô, sứ đồ lừng danh của giáo hội, đã từng bị một chứng bịnh mà ông gọi là “một cái giằm xóc vào thịt”. Trong niềm tin ông cầu nguyện ba lần xin Chúa lấy ra khỏi thân thể, nhưng Chúa phán:”Ân sủng của Ta đã đủ cho ngươi rồi”. Cuối cùng ông vui vẻ tuyên xưng: “Vậy, tôi sẽ rất vui lòng tự hào về những yếu đuối của tôi, để QUYỀN NĂNG CỦA ĐẤNG CHRIST CÓ THỂ NGỰ TRÊN TÔI” (II Cô-rinh-tô 12:9). Vị thánh đồ đã khám phá một Nguồn Năng Lực Siêu Nhiên!

Friday, 20 May 2016

MỘT BÍ QUYẾT KHỎE MẠNH

Tiến sĩ David Hawkins là một bác sĩ y khoa nổi danh của nước Mỹ. Ông cho biết khi nhìn một bệnh nhân ông có thể biết người đó vì sao mà bị suy nhược, bệnh hoạn. Bởi tìm trên cơ thể người ấy không thấy chữ “yêu”, mà chỉ toàn là khổ, hận, ưu phiền phủ trùm toàn tấm thân của họ.
Ông khám phá ra rằng trong mỗi con người đều có từ trường hay tầng số rung động. Cao nhất là 1000, thấp nhất là 1. Khi tầng số rung động rơi xuống dưới 200, người ta sẽ dễ bị bịnh. Những người hay oán hờn, chỉ trích, hận thù, tầng số của họ có khi chỉ còn 30 hoặc 40. Bởi vì mỗi khi trong tâm tư trĩu nặng thái độ đó, năng lượng sẽ bị tiêu hao, gia tăng nguy cơ suy nhược sức khỏe.
Bác sĩ Hawkins cho biết trong đời ông đã từng gặp nhiều người có tầng số rung động cao đến 700. Với năng lượng dồi dào, mỗi khi họ xuất hiện sẽ làm ảnh hưởng từ trường cả khu vực xung quanh. Ông lấy một ví dụ: Khi vị nữ tu Teresa đứng lên nhận giải thưởng Nobel Hòa Bình, không khí cả phòng hội sinh động hẳn lên, tầng số rất cao, sức mạnh nội tại của bà làm cho cả ngàn khán giả cảm nhận năng lượng tràn ngập, bởi vì họ chịu ảnh hưởng tấm lòng bác ái từ nơi người mà họ kính mến.
Khi người có năng lượng cao xuất hiện sẽ làm cho vạn vật tốt đẹp hơn. Còn người có tâm ý tiêu cực không những tự làm hại chính mình mà còn làm cho từ trường xung quanh xấu đi.
Vậy thì những ai có tầng số trên 200? Đó là những người thường quan tâm đến tha nhân, hướng thiện, bao dung, độ lượng. Có khi họ đạt đến mức 400-500. Ngược lại, người ưa căm giận, hay phẫn nộ, ích kỷ, nhỏ mọn thường có tầng số rung động thấp, dễ đưa đến những bệnh tật như ung thư, tim, v.v...Để kết luận, ông cho rằng ý niệm cá nhân về cuộc đời và xã hội có ảnh hưởng rất tích cực đến sức khỏe. Và căn nguyên của bệnh tật phần lớn là bởi thiếu tình yêu thương. Muốn cho mình khỏe mạnh, yếu tố cần thiết là “yêu và được yêu”.

Thánh Kinh dạy: “Ai yêu thương anh em mình là người sinh hoạt trong ánh sáng, thấy rõ đường mình đi. Còn người ghét anh em mình là còn quờ quạng trong bóng tối, không biết mình đi đâu” (I Giăng 2:10-11 BDY).

Tuesday, 17 May 2016

TỪ KHƯỚC MỘT MÁI NHÀ

Melbourne đã nhiều năm được bình chọn là thành phố số một trên thế giới. Thế nhưng, du khách đến đây, nhất là vào ban đêm, sẽ thấy ngỡ ngàng vì có nhiều người vô gia cư (homeless people) tụ tập tại những địa điểm du lịch như City Square rồi trải mền, nệm nằm ngủ giữa trời Đông băng giá.
Xin đừng hiểu lầm rằng chính phủ không quan tâm đến những người khốn khổ nầy. Mới đây ông thị trưởng Robert Doyle còn cử đại diện đến gặp họ để báo tin Hội đồng Thành phố chuẩn bị cho họ chỗ ở qua ba tháng mùa lạnh và chăm sóc sức khỏe khi cần đến. Nhưng họ từ chối! Họ khăng khăng đòi hỏi chính quyền phải cung cấp những căn nhà để ở suốt đời.
Các cơ quan từ thiện đều khuyên họ nên chấp nhận sự trợ giúp hậu hỉ nầy của chính phủ như một bước khởi đầu để trở lại nếp sống bình thường, nhưng cuộc nói chuyện giữa hai bên bế tắc, vì họ khước từ sự trợ giúp đó. Ông thị trưởng lấy làm thất vọng, e rằng sự kiên nhẫn của Hội đồng Thành phố có giới hạn. Điều đáng tự hào trong đất nước tự do dân chủ nầy, là dù chính quyền có lấy làm khó chịu với hình ảnh của những người vô gia cư, nhưng chỉ tỏ bày sự trợ giúp, khuyến khích, còn quyền quyết định là của họ. Anh John, đại diện cho nhóm cư dân hè phố nầy, tuyên bố với báo chí: “Chúng tôi đã chịu nhiều điều vu oan, nên quyết định sẽ bám trụ tại đây càng lâu càng tốt”. Nghĩa là họ vẫn muốn tiếp tục làm người vô gia cư!
Một trong những ví dụ quen thuộc của Chúa Giê-xu nói đến người con trai hoang đàng. Anh trở thành kẻ vô gia cư sau nhiều ngày rong chơi, lãng phí. Rất may, khi đang ngấu nghiến vỏ đậu, thức ăn giành cho heo, thì anh tỉnh ngộ, tự nhủ: “Tại nhà cha ta, biết bao người làm mướn được bánh ăn dư dật, mà ta đây phải chết đói”. Quyết định khôn ngoan nhất trong đời của anh là: “Ta sẽ đứng dậy trở về cùng cha”.
Chúa Cứu Thế hứa với những người tin Ngài rằng: “Trong nhà Cha Ta có nhiều chỗ ở. Ta đi sắm sẵn cho các ngươi một chỗ. Khi Ta đã sắm sẵn cho các ngươi một chỗ rồi, Ta sẽ trở lại đem các ngươi đi với Ta, hầu cho Ta ở đâu thì các ngươi cũng ở đó”  (Giăng 14:1-3)

Xin đừng tiếp tục làm một “homeless people” tâm linh nữa! Hãy đứng dậy trở về cùng Cha Thiên Thượng.

Wednesday, 11 May 2016

LỢI ÍCH CỦA THỂ DỤC, THỂ THAO

Tháng 8 năm 2016 Thế Vận Hội Mùa Hè lần thứ 31 sẽ khai mạc tại thành phố Rio de Janeiro, Ba Tây (Brazil). Cuộc tranh tài hoàn vũ nầy cũng là dịp kỷ niệm 120 năm ngày khai sinh Thế Vận Hội của Kỷ Nguyên Mới do bá tước người Pháp Pierre de Coubertin dày công vận động.
Bá tước Pierre de Coubertin giành suốt đời để cổ võ thể dục, thể thao, vì theo ông nó không những tạo sức khỏe thân thể mà còn bổ dưỡng đầu óc, tạo vững mạnh tinh thần. Mới đây, các nhà khoa học đã làm lý luận nầy thêm chắc chắc khi họ khám phá bằng chứng rằng thể dục, thể thao không những làm thân thể tráng kiện mà còn làm cho kích thước của bộ não lớn hơn, hoạt động mạnh mẽ hơn.
Từ năm 2015, các giáo sư của trường đại học Kentucky, Hoa Kỳ, đã giành thời gian theo dõi 30 người trong độ tuổi 59 đến 69. Họ thường xuyên kiểm tra tim, phổi, sự vận chuyển của máu về não của những người thường xuyên chạy bộ và của những người thích nằm dài trên giường. Cuộc nghiên cứu đưa đến kết luận: những người biết giữ cho thân thể khỏe mạnh có bộ não lớn hơn, trí nhớ tốt hơn và sự suy nghĩ rõ ràng hơn. Trái lại, người lười tập thể dục có não bộ nhỏ hơn và khả năng nhận thức bị giảm sút. Thêm vào đó, khi giữ cơ thể khỏe mạnh bằng thể dục, thể thao còn giúp trí óc chậm lão hóa và yểm trợ đắc lực cho tiến trình thay thế những tế bào chết.
Kinh Thánh có nói gì về chuyện tập luyện thân thể không? Nếu đọc những lời của sứ đồ Phao-lô như I Cô-rinh-tô 9:24-27 hay I Ti-mô-thê 4:8 chúng ta sẽ thấy mặc dù không trực tiếp bàn đến vấn đề thể dục, thể thao, nhưng Thánh Kinh cho chúng ta một cái nhìn tích cực trong việc chăm sóc, gìn giữ cơ thể mà Phao-lô gọi là “đền thờ của Đức Chúa Trời” (I Cô-rinh-tô 6:19).
Giữ thân thể tráng kiện không phải để người khác ngưỡng mộ, mà là để cải thiện sức khỏe vật lý hầu sỡ hữu năng lực mạnh mẽ, phụng vụ tốt đẹp mục tiêu thiên thượng. Đó là động cơ quan trọng nhất khi người Cơ-đốc dành thời gian cho thể dục, thể thao.

“Vì anh chị em đã được mua bằng giá rất cao rồi; vậy hãy lấy thân thể mình làm vinh hiển Đức Chúa Trời” (I Cô-rinh-tô 6:20).

Friday, 6 May 2016

LỜI RU CỦA MẸ


Tôi mất mẹ năm lên 5 tuổi, lúc đó em gái tôi chỉ vừa tròn hai tháng và mẹ nằm bệnh viện, nên đến bây giờ tôi không thể hình dung nổi hình ảnh của mẹ tôi, cũng như không nhớ mẹ đã hát ru con như thế nào.
Bài viết dưới đây như một nén hương lòng để tưởng nhớ người mà đã gần sáu mươi năm tôi không còn dịp để nói lên hai tiếng “Mẹ ơi!”.

Dù chưa ai có thể xác định thời gian, nhưng dường như tiếng hát ru con đã có từ ngàn xưa, khi ngôn ngữ loài người hoàn chỉnh và khi kho tàng ca dao đã hình thành trong xã hội dân gian. Con người dùng tiếng nói, lời ca để thể hiện cung bậc cảm xúc, tình yêu qua những truyện kể, ca dao, tục ngữ, câu hò, điệu múa.
Hát ru con còn gọi là hát đưa em hay hát ầu ơ. Đó là những bài hát ngắn, dựa vào những câu ca dao có sẵn, rồi thêm vào những tiếng đệm, tiếng láy, tiếng đưa hơi, tùy theo ngôn ngữ địa phương và tùy theo tâm trạng của người hát. Theo lẽ tự nhiên trong xã hội, trai lớn lên cưới vợ, gái lấy chồng, sinh con đẻ cái, tạo nên mái ấm gia đình. Những đứa trẻ chào đời vừa minh chứng cho tình yêu đôi lứa, vừa là sợi dây ràng buộc tình cảm, trách nhiệm của bậc làm cha mẹ. Việc chăm sóc đứa bé thường do người mẹ đảm trách, vì đó là thiên chức mà Đấng Tạo Hóa ban tặng cho phụ nữ.
Trong công tác chăm nuôi con trẻ, người mẹ dành một khoảng thời gian rất lớn cho việc vỗ về giấc ngủ của bé thơ. Để cho đứa nhỏ chìm vào giấc điệp, người mẹ ê a những câu vè, đặt ra những lời hát, kèm theo phần đệm hơi như à ơi, ầu ơ để thêm phần nhẹ nhàng, du dương, cho con dễ ngủ. Kho tàng ca dao êm ái, giàu âm điệu của Việt Nam trở thành nguồn cung cấp lời ca cho những bài ru em đó. Giọng ru dường như cố tình kéo dài ra bằng những từ vô nghĩa như ơ, ờ, ớ, ở để giai điệu thêm phần trầm bổng miên man, làm cho đứa bé dễ rơi vào giấc ngủ thần tiên. Gói gém trong tiếng ca còn là tiếng lòng của mẹ về thân phận con người, về những bài học đạo đức, hay cách đối nhân xử thế mà mẹ muốn truyền đạt cho con, dù rằng con thơ chưa thấu hiểu nổi.
Người ta nói một đứa trẻ khi ngủ thường trải qua ba giai đoạn: khóc đòi ngủ, ngủ mơ màng, rồi đến ngủ say. Và nếu quan sát cách bà mẹ hát ru con cũng có ba cung bậc, ba kiểu hát khác nhau nhằm dìu dắt con mình từ trạng thái buồn ngủ sang một giấc ngủ sâu.
Khi đứa trẻ khóc vì buồn ngủ, người mẹ nhẹ nhàng đưa bé vào nôi hay võng, rồi vỗ về nhè nhẹ bằng một lời ca dao như “Ầu ơ, ví dầu, ví dẫu, ví dâu. Ví qua ví lại, ví trâu vô chuồng”. Lời ru có khi chỉ là những câu đơn sơ, vô nghĩa, chỉ cốt yếu là tạo ra âm thanh đều đều bên tai để ru em bé chìm vào giấc mộng. Nhưng nếu em bé khóc to, thì tiếng hát của mẹ lớn hơn, nhanh hơn, như át đi tiếng khóc, buộc con mình cảm nhận nhạc điệu của lời ru. Rồi khi đứa trẻ rơi vào giấc ngủ lơ mơ, giọng ca của mẹ dịu lại, thâm trầm hơn, chậm hơn, các đề tài cũng mang tính cách dạy dỗ hơn, như “À ơi, trắng da vì bởi phấn dồi, Đen da vì bởi em ngồi chợ trưa”, hay “À ơi, sông dài cá lội biệt tăm, Phải duyên chồng vợ, ngàn năm vẫn chờ”.
Khi cảm thấy đứa con đã ngủ say, bài hát của mẹ chuyển sang một cung bậc mới, tha thiết hơn, đậm đà hơn. Lúc nầy mẹ hát là để ký thác một tâm sự, thổ lộ một tâm tình, như “Ầu ơ, Gió đưa bụi chuối sau hè, Anh mê vợ bé bỏ bè con thơ”. Hay “Ầu ơ, chàng ơi phụ thiếp làm chi. Thiếp như cơm nguội đỡ khi đói lòng”. Con đã ngủ, nhưng mẹ vẫn thức, vẫn hát cho chính mình nghe, trút bớt niềm tâm sự cho gánh nặng trong lòng vơi đi.
Dù rằng hát ru nhằm mục đích tạo niềm êm ái cho giấc ngủ của con, nhưng người mẹ Việt Nam cũng lồng vào đó những bài học luân lý, những cách xử thế trong đời, để rồi khi lớn lên, lúc hiểu được ý nghĩa của lời ca dao, tục ngữ, con có sẵn một hành trang đạo đức vào đời. Một người hát cho một người nghe, giữa hai có mối thâm tình mẫu tử, làm tăng thêm sự khắng khít trong tình yêu của mẹ mà không có một loại máy móc hiện đại nào có thể thay thế được.
Chúng ta không biết các bà mẹ người Do Thái ngày xưa có hát ru con không, nhưng qua những gì Kinh Thánh ghi lại, dường như các bà như An-ne mẹ của Sa-mu-ên, Ma-ri mẹ Chúa Giê-xu hay Ơ-nít mẹ của Ti-mô-thê đã từng dùng những câu thơ trong Thánh Vịnh, bài hát của Thi Thiên mà ru giấc ngủ của con mình, nhằm truyền đạt đức tin, lòng nhân hậu và cách cư xử giữa xã hội loài người. Thánh Kinh I Sa-mu-ên đoạn 2 có ghi lại bài ca của bà An-ne, để rồi có thể nhờ lời ru đó vị tiên tri nhỏ bé đã hiến dâng đời mình phụng sự Đức Giê-hô-va. Phúc Âm Lu-ca đoạn 1 cũng ghi lại bài hát của bà Ma-ri, rồi cho biết rằng “Đức Chúa Giê-xu khôn ngoan càng thêm, thân hình càng lớn, càng được đẹp lòng Đức Chúa Trời và người ta” (Lu-ca 2:52). Vị sứ đồ khả kính Phao-lô khi viết thư cho mục sư trẻ Ti-mô-thê đã minh xác “Ta cũng nhớ đến đức tin thành thật của con, là đức tin trước đã ở trong Lô-ít, bà ngoại con, và trong Ơ-nít, mẹ con, ta chắc rằng nay cũng ở trong con” (II Ti-mô-thê 2:5).
Những tấm gương đó khuyến khích các bà mẹ hãy thêm vào dòng sữa ngọt những câu ca dao đậm nét dân tộc và lời thơ, ca thánh mà nuôi dưỡng thế hệ mới trong niềm yêu mến Chúa. Nhờ vào tấm lòng nhơn đức của mẹ mà đám con hậu duệ sẽ thành những người yêu mến Ngài, là những công dân gương mẫu, hữu ích trong cộng đồng xã hội. A-men!
Thong Tran
7 May 2016.


Monday, 2 May 2016

XÓT XA

Mẹ tần tảo làm ăn, dành dụm từng đồng tiền từ mớ rau ngoài ruộng, con cá, con tôm bắt được ở bờ ao, gửi lên Sài-gòn cho chị Hai ăn học.  Mẹ dầm mưa dãi nắng, không một lời than vãn để các con nên người.
Năm tháng trãi dài. Chị Hai học xong, làm một chức lớn trong công ty du lịch, rất bận bịu. Dễ chừng mãi bốn năm năm mới về thăm mẹ một lần. Cả nhà vui mừng lắm. Tờ mờ sáng mẹ đã dậy, chèo xuồng qua chợ mua thức ăn, làm một bữa cơm thịnh soạn. Me nói:
-Tội nghiệp chị Hai bay, làm việc tíu tít ở Sài-gòn, đâu có được bữa ăn nào đàng hoàng, tử tế đâu!
Đang ăn nửa chừng, chị Hại giật mình, khều một sợi tóc từ dĩa rau, la lớn:
-Ai làm ăn bê bối, cẩu thả thế nầy? Mấy đứa ở của con trên Sài-gòn nấu ăn dơ dáy như vậy, con bắt đổ bỏ, trừ lương, có khi còn bị đuổi việc nữa!
Nói xong, chị Hai bỏ đủa, giận lẫy, ngoe nguẩy lên nhà trên. Má ngồi im như tượng đá.
Thằng Út cầm sợi tóc lên săm soi rồi khều tay mẹ nói:
-Sợi tóc bạc hơn một nửa rồi, mẹ ạ.
______________________________________________________________________________

Nhân Ngày Từ Mẫu, xin gửi đến Bạn vài câu Thánh Kinh dạy về người Mẹ:
Ê-sai 66:13 “Ta sẽ yên ủi các ngươi như mẹ yên ủi con”.
Châm Ngôn 23:22: “Chớ khinh bỉ mẹ con khi người trở nên già yếu”.
I Ti-mô-thê 5:4: “Nếu một góa phụ có con hoặc cháu, các con cháu đó trước hết phải học cách bày tỏ lòng hiếu thảo và đền đáp công ơn các đấng sinh thành, vì đó là điều đẹp lòng Đức Chúa Trời”.

Ê-sai 49:15: Có thể nào người mẹ quên con thơ còn bú của mình, Hoặc không thương xót đến con trai ruột mình sao? Dù người mẹ có thể quên con thơ mình đi nữa, Ta sẽ chẳng quên ngươi”.