Thursday, 27 December 2012

"NGÀY KHÔNG MUA GÌ' (BUY NOTHING DAY)


Bạn có nghe nói đến “Ngày Không Mua Gì” (Buy Nothing Day)? Đây là sáng kiến của nghệ sĩ Ted Dave ở Canada, lần đầu tiên tổ chức vào năm 1992 và hiện nay đã có 65 nước trên thế giới tham gia. Năm 2012 nầy họ đã dùng hai ngày 23 và 24 tháng 11 để cổ động cho phong trào “không mua gì” trên toàn cầu.
Trong ngày đó, thành viên của những người ủng hộ phong trào “Ngày Không Mua Gì” sẽ đến trước những cửa hàng lớn, cầm theo tấm bảng khuyến khích khách hàng chấm dứt thói ghiền mua sắm, và họ sẵn sàng giúp đỡ bằng cách dùng chiếc kéo đã mang theo để cắt ngang tấm thẻ visa hay master card, giúp cho nhiều người tránh được cảnh nợ nần thường lâm phải trong những dịp Giáng Sinh hay Năm Mới. Họ cũng chịu khó đến gần những khách hàng đang vung tiền trong các cửa tiệm, để tỉ tê khuyên nhủ nên thay đổi thói quen chi tiêu vì tương lai gia đình, con cái.
Mặc dầu phong trào đã cố gắng hết sức, nhưng thống kê cho biết, số người mua sắm năm nay tại Mỹ vẫn chiếm 147 triệu, so với 152 triệu năm ngoái. Nghĩa là chỉ giảm nhẹ đôi chút mà thôi. Dường như thói quen đó đã thấm sâu vào máu huyết của con người. Khó mà thay đổi!
Chính phủ Úc vẫn thường nhắc nhở dân chúng, nhất là trong mùa Nô-ên, vì có biết bao người lâm cảnh nợ nần, túng quẩn sau mùa đại Lễ, nhiều tháng sau đó mới hoàn trả nổi. Bởi vì tiền lời trong thẻ tín dụng mỗi ngày cứ chồng chất mãi.
Sứ đồ Phao-lô đã từng khuyên: “Chớ xử mình như người dại dột, nhưng như người khôn ngoan” (Ê-phê-sô 5:15). Có lẽ mua sắm cách khôn ngoan cũng thể hiện lối sống cao đẹp và tiết độ của người con cái Chúa?

Thursday, 20 December 2012

EM-MA-NU-ÊN


Em-ma-nu-ên là một danh từ rất đẹp trong ngôn ngữ Do Thái. Từ ngữ đó được ghép bằng hai chữ: El nghĩa là Đức Chúa Trời, và Immnu nghĩa là với chúng ta. Emmanuel hay Immanuel nghĩa là “Đức Chúa Trời ở với chúng ta”.
Từ ngữ Em-ma-nu-ên chỉ xuất hiện ba lần trong Thánh Kinh: hai lần trong Cựu Ước (Ê-sai 7:14 và Ê-sai 8:8) và duy nhất một lần trong Tân Ước (Ma-thi-ơ 1:23), nhưng ý niệm về Thiên Chúa ở cùng dân sự Ngài bàng bạc suốt dòng lịch sử. Bất cứ lúc nào hình ảnh Đức Chúa Trời đứng về phía con dân Ngài cũng mang theo sức mạnh, quyền năng và sự chiến thắng.
Thi Thiên 23:4 vua Đa-vít tâm sự: “Dầu khi tôi đi trong trũng bóng chết, tôi sẽ chẳng sợ tai họa nào, vì Chúa ở cùng tôi”. Hoặc trong một lần đất nước Giu-đa bị cường quốc A-sy-ri tấn công như vũ bão. Lòng dân tan chảy vì sợ hãi. Nhưng vua Ê-xê-chia khích lệ đồng bào rằng hãy can đảm lên, vì “có một Đấng ở cùng chúng ta” (II Sử-ký 32:7-8). Với niềm tin vững mạnh đó vua Ê-xê-chia phủ phục trước mặt Chúa, trình dâng hoàn cảnh bi thương của đất nước, xin Ngài giải cứu. Kết quả, 185.000 chiến binh dũng mãnh của vua San-chê-ríp đã bị hủy diệt.
Năm thế kỷ trước khi Chúa Giê-xu giáng thế, tiên tri Ê-sai đã dự ngôn: “Nầy một trinh nữ sẽ chịu thai, sinh ra một trai, và đặt tên là Em-ma-nu-ên” (Ê-sai 7:14). Sứ đồ Ma-thi-ơ giải thích danh hiệu đó bằng một hình ảnh sống động khi kể lại sự tích Giáng Sinh của ĐẤNG EM-MA-NU-ÊN. Ý nghĩa Đức Chúa Trời ở cùng chúng ta đã thực hiện trọn vẹn khi Ngài nhập thế, sống giữa loài người.“Ta hằng ở cùng các con cho đến tận thế” là lời hứa vĩnh cữu mà Ngài đã để lại (Ma-thi-ơ 28:20). Sứ đồ Phao-lô minh xác “Nếu Đức Chúa Trời vùa giúp chúng ta, thì còn ai nghịch với chúng ta?”  (Rô-ma 8:31).
Ngày nay trước mỗi cảnh ngộ khó khăn của đời sống, con dân Chúa có thể cầu khẩn với Ngài rằng: “Nguyện Em-ma-nu-ên!”

Wednesday, 12 December 2012

MỐI NGUY CỦA QUÂN ĐỘI MỸ



Ai cũng tưởng mối nguy lớn nhất của nền an ninh nước Mỹ đến từ Nga, Trung Cộng hay các tổ chức khủng bố Hồi Giáo. Nhưng bản tin vào ngày 10 tháng 10 năm 2012 vừa qua đã cho biết: nỗi đe dọa đáng quan tâm nhất cho quốc phòng Hiệp Chủng Quốc chính là giới trẻ trong nước!
Lý do: việc tuyển mộ binh sĩ tại Mỹ gặp nhiều khó khăn vì giới trẻ quá mập và lười suy nghĩ. Đa số thiếu niên bị các trò chơi trên computer làm cho ù lì, không còn muốn vận động cơ thể nữa. Trong lứa tuổi 17 đến 24 đã có 25% không thể nhập ngũ vì quá mập. Tỉ lệ nầy tăng gấp đôi những lý do bị loại trừ khác, như kém thông minh hay có tiền án.
Tạp chí quân sự Wired của Mỹ đã thống kê: vào thời đệ nhị thế chiến (1939-1945), tỷ lệ giới trẻ có đủ điều kiện nhập ngũ là 12 phần trăm dân số. Ngày nay chỉ còn 1 phần trăm. Nghĩa là khi có chiến tranh xảy đến, nước Mỹ sẽ không còn đủ quân đội để đương đầu. Đó sẽ là một đại họa cho cường quốc số một trên thế giới!
Có khi nào ta tự hỏi: Tôi có sẵn sàng cho một trận chiến thuộc linh? Những trang bị của một tinh binh cho vị lãnh đạo Giê-xu có còn “vừa vặn” với tôi nữa không? Hay là tôi đã trở nên bất khiển dụng khi Ngài cần đến? “Hãy mạnh mẽ trong Chúa và trong quyền năng Ngài. Hãy trang bị mọi khí giới của Thượng Đế để chống lại những âm mưu của ma quỉ”  (Ê-phê-sô 6:10-17 -Bản dịch mới).

Thursday, 6 December 2012

THUỐC LÁ


Ngày 15 tháng 8 năm 2012 vừa qua Tòa án Tối cao của Úc đã phán quyết: kể tứ 1 tháng 12 năm 2012, tất cả những bao thuốc là bán ra thị trường phải đựng trong bao màu xanh trơn, không có nhãn hiệu nào cả. Rồi đây những nước khác như Tân tây lan, Anh, Ấn-độ, Canada v.v…cũng sẽ áp dụng tương tự nhằm chống lại nạn hút thuốc lá, nhất là trong giới trẻ.
Theo kết quả nghiên cứu của những chuyên gia y tế, những người nghiện thuốc lá sẽ khó cai hơn những người nghiện ma túy. Bởi vì tác động của chất nicotine trong thuốc lá lên võ não mạnh hơn so với những chất ma túy rất nhiều. Tiến sĩ Raymond Seidler thuộc viện nghiên cứu tại Sydney cho biết nhiều người nghiện thuốc lá nghĩ rằng họ sẽ dễ bỏ hơn những người nghiện ma túy, do đó cứ liên tục đốt hiết điếu nầy đến điếu khác mà không hề nhận thức rằng cơ hội bỏ thuốc hoàn toàn rất hiếm hoi và khó khăn vô cùng. Muốn bỏ thuốc, một người phải có ý chí, kiên trì và nhiều bản lãnh. Nếu không, chỉ một thời gian sau, đâu sẽ lại vào đấy!
Đó cũng có thể là một kinh nghiệm chung trước nhiều cám dỗ trong đời mà sức người không chống chọi nổi. Sứ đồ Phao-lô đã từng chia xẻ: “Tôi muốn làm điều lành, thì điều dữ cứ dính dấp theo tôi”. Cho đến nỗi ông la lên: “Khốn nạn cho tôi! Ai sẽ cứu tôi thoát khỏi thân thể hay chết nầy?”. Nhưng rồi ông tìm ra một bí quyết: “Cảm tạ Đức Chúa Trời, nhờ Đức Chúa Giê-xu Christ, Chúa chúng ta”. Rô-ma 7:21-25.

Tuesday, 27 November 2012

NHỮNG TẤM LÒNG VÀNG

Vào năm 1892, tại đại học Stanford (Hoa Kỳ) có hai sinh viên mồ côi, không có tiền trả học phí. Và họ nảy ra sáng kiến: tổ chức một buổi trình diễn âm nhạc có bán vé để gây quỹ.
Họ đến với nhạc sĩ dương cầm đại tài Ignacy Paderewski để xin ông đến biểu diễn. Người quản lý của Paderewski yêu cầu trả số tiền $2000, một con số khá lớn thời bấy giờ. Hai bên thỏa thuận và họ bắt tay vào việc tổ chức. Nhưng đến ngày trình diễn, số tiền bán vé thu được chỉ có $1600. Những chàng sinh viên nghèo đem hết số tiền đến giao cho Paderewski và hứa rằng sẽ trả món nợ $400 sau. Nhưng người nhạc sĩ nói: “Không, các cậu cứ giữ toàn bộ số tiền đó cho việc học, không phải trả cho tôi gì hết”. Họ vô cùng bất ngờ, xúc động cảm ơn nhà dương cầm tốt bụng và đầy nhân cách.
Người nghệ sĩ hào phóng đó về sau đã trở thành thủ tướng của dân tộc Ba-lan. Dù là nhà lãnh đạo tài ba và tận tụy, nhưng chiến tranh đã tàn phá tơi tả đất nước ông. Hơn một triệu rưỡi người chết đói. Ông đã phải nhờ đến Cơ quan Cứu Trợ Lương thực của Hoa Kỳ giúp đỡ. Người đứng đầu cơ quan nầy là Herbert Hoover (về sau trở thành tổng thống Mỹ). Hàng ngàn tấn lương thực nhanh chóng được gửi sang, công cuộc cứu trợ rất thành công. Và khi vượt qua thảm họa, Paderewski quyết định đi Hoa Kỳ để tỏ lòng tri ơn Hoover và đất nước đại lượng. Thế nhưng, khi Paderewski định tỏ lời cảm ơn, thì Hoover chận lại và nói: “Thưa thủ tướng, Ngài không cần cảm ơn tôi. Ngài còn nhớ một lần trước đây Ngài đã từng giúp cho hai sinh viên có tiền theo đuổi việc học. Tôi là một trong hai người đó”.
Những tấm lòng vàng đó đã làm cho thế giới tốt đẹp biết bao!  Xin tặng Bạn một câu Thánh Kinh: CHÂM NGÔN 19:17.

Thursday, 22 November 2012

LỄ TẠ ƠN

Lễ Tạ Ơn (tiếng Anh là Thanksgiving) là một trong những ngày lễ trọng thể tổ chức hằng năm tại Mỹ và Canada để bày tỏ lòng cảm ơn Chúa đã ban cho cuộc sống đầy đủ và an lành. Đây là lễ hội truyền thống có từ năm 1621 cho đến ngày nay.
            Câu chuyện bắt đầu từ thế kỷ thứ 16, khi hoàng đế nước Anh bắt buộc mọi người phải cải đạo theo tôn giáo của ông. Trong số những người chống đối có bộ tộc Pilgrim. Nhiều người đã chấp nhận ngồi tù để giữ vững niềm tin. Sau đó nhà vua cho họ chọn lựa: theo đạo của vua hoặc rời khỏi nước Anh! Những người Pilgrim bồng bế nhau đến Hòa Lan sinh sống. Nhưng rồi họ thấy cuộc sống nơi nầy không thích hợp với tương lai con cháu, nên đã lên thuyền giong buồm đến “tân thế giới” (châu Mỹ). Con thuyền Mayflower đến bến bờ Hoa Kỳ ngay lúc mùa đông, Đói và lạnh đã khiến một số người trọng bọn không sống sót nổi. May gặp những người da đỏ bản xứ tốt bụng cho họ đồ ăn, chỉ dẫn cách sinh tồn trong thời tiết khắc nghiệt, dạy săn bắn v.v…Nhờ đó thoát khỏi kiếp lầm than. Khi cuộc sống ổn định, họ tổ chức một LỄ TẠ ƠN để cảm tạ Thiên Chúa và tri ơn những người da đỏ đã cứu giúp. Truyền thống tốt đẹp nầy lưu lại mãi đến ngày nay.
            Tạ ơn là một đặc điểm quý báu của những con dân Chúa khi nghĩ đến sự cứu rỗi, ban ơn và chăm sóc của Ngài. Đó còn là dịp cho ta nói lên lòng cảm tạ những người đã cưu mang, an ủi, chia xẻ với mình trong những giờ phút bi đát nhất của cuộc đời.
            “Hỡi Giê-hô-va Đức Chúa Trời tôi, tôi sẽ cảm tạ Chúa đến đời đời” (Thi-thiên 30:12b).

Monday, 19 November 2012

BẠN CÓ THƯỜNG HÁT THÁNH CA?

Hát Thánh Ca tốt cho sức khỏe, nhất là những người lớn tuổi. Đó là kết quả của một cuộc nghiên cứu do giáo sư Jill Hamilton của viện Đại học ở North Carolina, miền Đông nước Mỹ tiến hành.
Sau một cuộc khảo sát nhiều năm tháng giữa những người Mỹ gốc Phi cao tuổi, người ta khám phá ra rằng việc thực hành niềm tin tôn giáo, nhất là hát các bản Thánh ca có tác dụng rất tốt trong việc thư giản, làm giảm áp lực (stress) cách đáng kể cho những bậc cao niên. Thánh ca làm tăng niềm tin, hi vọng, vơi đi những ưu phiền trần tục, chữa lành những u uẩn cuộc đời. Phần lớn những người tham gia vào cuộc nghiên cứu đều đồng ý rằng những bài hát ca ngợi Chúa làm sống lại kỷ niệm ấu thơ, hoài niệm về quê hương, tưởng nhớ đến tổ tiên, giúp họ giảm bớt những căng thẳng trong cuộc sống, thêm nội lực cho tâm hồn. Những ai thường duy trì cuộc sống vận động, thích sinh hoạt thể thao, thì khi hát các ca khúc nầy lại càng phát huy tác dụng.
Điều mà người ta mới vừa khám phá và khuyến khích chúng ta thực hành, thì hai ngàn năm trước Sứ đồ Phao-lô đã hết lòng khuyên nhủ cộng đồng giáo hữu tại thành Ê-phê-sô: “Hãy lấy ca vịnh, thơ thánh và bài hát thiêng liêng mà đối đáp cùng nhau, và hết lòng hát mừng ngợi khen Chúa” (Ê-phê-sô 5:19)

Thursday, 15 November 2012

CẢM THÔNG MANG LẠI LỢI ÍCH GÌ CHO CHÍNH TA?

Sau bài “Cảm Thông” tuần rồi, có người hỏi: “Tôi cảm thông với người khác, tôi được ‘lợi’ gì không?
Thật ra, nếu ta đã có lòng độ lượng thì sẽ không nghĩ đến điều lợi cho chính mình. Nhưng đã hỏi thì cũng nên trả lời:
Các nhà tâm lý cho rằng khi ta phát huy tính cảm thông, là ta giảm bớt sự quan tâm đến bản thân mình mà tăng sự lưu tâm đến người khác, lòng nhân đạo ấm áp hơn, tâm hồn rộng mở hơn. Từ đó ta sẽ là một người dễ thương hơn, có lòng trắc ẩn hơn, mềm mại với người xung quanh hơn và dĩ nhiên sẽ trở nên lôi cuốn hơn. 
Ngoài ra, người có lòng cảm thông sẽ giảm áp lực của chính mình và làm tăng mức độ hạnh phúc mà mình đã ban ra. Họ nhận thức thực tế rằng mình chỉ là một con người, thường hay mắc nhiều sai phạm, để rồi sẽ dễ dàng tha thứ, khoan dung với người khác khi họ phạm lầm lỗi. Vì lẽ đó, người cũng có tầm nhìn rộng rãi với chính bản thân, bớt đi tánh mặc cảm, bỏ thói tự sỉ vả mình khi sai quấy, học hỏi từ thất bại mà tiếp tục dấn bước đi lên.
Và với bản tánh lương thiện đó, người có lòng cảm thông thường có mối liên hệ tốt với tha nhân, không tự cô lập mình, biết chia xẻ niềm vui cõi buốn, thay vì cứ mãi ôm ấp, gậm nhấm nỗi cô đơn của riêng mình.
Thánh Kinh đã dạy: “Ban cho thì có phước hơn là nhận lãnh” (Công vụ 20:35).
Cảm thông là cách tuyệt vời để sống và giao tiếp với xã hội. Ta sẽ dễ điều hòa và ứng phó tốt đẹp cho mọi tình huống xảy đến xung quanh. Ta sẽ hiểu chính mình hơn, dễ chấp nhận người khác hơn. Với kỹ năng giao tiếp đó, ta sẽ sống hài hòa với xã hội và dễ dàng thăng tiến trên bước đường đời dẫu nhiều nỗi đắng cay!

CẢM THÔNG

 “Cảm Thông” là một từ ngữ đáng yêu của tiếng Việt. Trong Anh ngữ, đó là chữ “compassion” có nguồn gốc từ tiếng La-tinh. “Cảm thông” là cùng đau khổ với người khác, là chia xẻ một kinh nghiệm đau thương mà chính mình đã từng trải qua. Từ sự cảm thông mà ta mới dễ dàng tha thứ khi nhìn thấy những lỗi lầm của người khác và nhứt là khi ta bị xúc phạm nặng nề.                                        
    Cảm thông có nghĩa là ta đặt mình vào vị trí của người đối diện, là nhận biết và hiểu được cảm xúc của người đó. Điều nầy không phát xuất từ lòng thương hại, thốt ra những lời an ủi giả dối, đầu môi chót lưỡi, mà là cảm nhận tất cả những gì họ đang trải qua, niềm vui hay sự đau khổ, bằng tâm trạng của chính mình, dường như là chính mình đang nếm trải vậy!
    Từ tấm lòng thấu hiểu đó, ta sẽ biểu lộ qua hành động, bằng sự quan tâm, chăm sóc. Ta sẽ bước ra khỏi thói quen tự xem mình là trung tâm, ích kỷ, chỉ muốn mọi người chú ý đến mình; thay vào đó là thái độ cỡi mở, vị tha, biết tôn trọng và chân thành hơn với đồng loại.
    2000 năm trước Sứ-đồ Phao lô đã từng khuyên nhủ: “Hãy vui với kẻ vui, khóc với kẻ khóc”. Rô-ma 12:14. Nhưng nếu không bởi lòng cảm thông, độ lượng, mấy ai thực hiện được lời khuyên quí báu nầy nhỉ?

Tuesday, 13 November 2012

CHỈ NHỜ MỘT CÂU HỎI

Ngày 28 tháng 7 năm 2012 vừa qua, anh Johnny Nguyễn, 26 tuổi, một người Việt Nam đã đến làm diễn giả cho một chương trình tổ chức tại Bankstown Art Center. Đề tài của bài nói chuyện: “Cơ Hội Thứ Hai”!.
    Từ tuổi thiếu niên Johnny Nguyễn đã là một tay chuyên môn hít thử chất crystal meth trước khi đem ra bán cho các con nghiện. Và dĩ nhiên Johnny là một tay nghiện ma túy rất nặng. Anh đã chứng kiến nhiều bạn bè, khách hàng gục chết vì xử dụng quá liều. Thân thể của anh đầy những vết sẹo, dấu tích của những trận đụng độ quyết liệt với các đối thủ ở những hộp đêm để bảo vệ “thương trường” của mình. Đã từng có một ông chú là thành viên của băng đảng 5T khét tiếng một thời, thì việc trở thành tội phạm chỉ là chuyện bình thường với một câu bé 18 tuổi.
    Nhưng bỗng nhiên, hai năm trước tay buôn ma túy thứ dữ đó lột xác như một phép lạ. Bây giờ anh sinh sống bằng nghề thợ ống nước và làm cố vấn cho giới trẻ lầm lỡ. Anh kể lại, câu chuyện khởi đầu ở một trạm xăng, có một người lạ hỏi anh rằng anh biết gì về Thượng Đế? Thế là dường như có một động lực thiêng liêng thúc đẩy anh quyết định tìm đến nhà thờ. Bởi đó cuộc đời chuyển sang một bước ngoặt mới! Anh nói: “Quả là một phép lạ đối với đời tôi. Từ một người quen với bạo lực, sống chung ma túy, tôi đã trở về làm người lương thiện!”. 
  “Nhưng hễ ai đã nhận Ngài, thi Ngài ban cho quyền phép trở nên con cái Đức Chúa Trời” (Giăng 1:12)

Monday, 12 November 2012

TÌNH YÊU BAO LA



Trong kỳ Thế Vận Hội Người Khuyết Tật 2012 vừa qua tại Luân Đôn, anh Ahmed Kelly tham dự môn bơi lội và đã về hạng tư trong lần chung kết. Anh vụt mất tấm huy chương đồng chỉ khoảng thời gian rất ngắn. Thế nhưng mẹ anh, bà Moira Kelly đã nói: “Đối với tôi, Ahmed đã chiếm huy chương vàng! Nó đã nở một nụ cười rất lớn, như đất nước Úc vậy. Bạn phải đến đây, chứng kiến điều nó đã làm, rồi bạn sẽ cảm nhận một niềm hạnh phúc vô biên”.
Ahmed 20 tuổi, khi sinh ra ở Iraq đã bị dị tật do những vũ khí hóa học mang lại, không có cánh tay, hai chân cụt mất từ đầu gối. Lúc còn tuổi ấu thơ, Ahmed và đứa em sơ sinh, Emmanuel, đã bị đem đến bỏ trước thềm nhà của một viện mồ côi. Cả hai đã được bà Moira Kelly nhận làm con nuôi và đem về Úc. Dưới sự bảo dưỡng của bà, hai anh em đã thành người hữu dụng: Ahmed là lực sĩ bơi lội, Emmanuel 18 tuổi là một nhạc sĩ trình diễn.
Trong cuộc bơi chung kết, người ta chứng kiến cảnh bà Moira Kelly choàng là cờ Úc, mắt nhìn xuống hồ nước, đẫm lệ, miệng không ngừng la lớn “Aussi, Aussi, Aussi, Oi, Oi, Oi!” để cổ võ cho từng mét bơi của Ahmed. Đối với bà, anh là tất cả, anh đã lập một kỳ công!
Giữa xã hội loài người, dù Bạn là ai, thấp hèn thế nào, thì trong vòng tay Thiên Chúa, Bạn vẫn mãi mãi được Ngài quí mến, thương yêu.
“Đức Giê-hô-va thương xót kẻ kính sợ Ngài, khác nào cha thương xót con cái mình vậy!”   (Thi thiên 103:13).

Friday, 20 April 2012

“TRÁI TIM CỦA MỘT NỮ THÁNH”


Đọc bài “Nhức Nhối Con Tim” của nhà văn Tràm Cà Mau đăng trên báo Việt Luận ngày 17 tháng 4, 2012 mà thấy mình nhỏ bé, tầm thường trước những tấm gương rất thật, rất bình dị, nhưng rất gần gủi mà cao thượng đến nỗi không biết mình có thể nào bắt chước được chăng?
                Tác giả kể lại chuyện mình vào bệnh viện mổ tim. Những ngày trước khi mổ, bà vợ ép ăn để đủ sức khỏe mà qua cuộc giải phẩu. Nhưng sau khi mổ xong, lại bị bón, đến nỗi ruột già căng cứng như muốn nổ ra. Y tá cho uống thuốc xổ, nước trái mận đen, và dùng đủ thủ thuật mà vẫn không thể đi tiêu. Đau đớn, khó chịu, đến nỗi tác giả tưởng rằng mình sẽ không chết vì bịnh tim mà chết vì vỡ ruột già. Thiếp được vài phút, rồi lại thức dậy, gần như mê sảng, tinh thần suy sụp.
                Lúc nửa đêm, hé mắt ra thấy một bà y tá người da đen, buột miệng thều thào “Có phải bà là thiên thần mà Thượng Đế gửi xuống giúp tôi không?”. Bà cười nhẹ, đặt tay lên trán và hỏi có điều gì cần giúp đỡ? Tác giả kể lại chuyện mình bị bón kinh khủng, ruột già sắp bị nổ tung. Bà cho thuốc vào hậu môn, nhưng không kết quả. Tràm Cà Mau kể: “Rồi bà bảo tôi nằm nghiêng, co chân, và trải nhiều khăn ra giường, quấn nhiều khăn làm vòng đai. Rồi bà đưa ngón tay vào hậu môn, móc phân ra từ từ, từng chút một. Cẩn thận, nhẹ nhàng. Khi phần cứng của phân moi ra hết, thì phần bên trong chảy phọt ra. Tôi thấy người nhẹ như bay bổng lên không trung, như trên vai mọc cánh, đang bay lượn giữa trời. Khỏe hẳn. Bà y tá dọn giường, và cho tôi viên thuốc ngủ. Tôi cảm ơn bà. Nụ cười trên môi bà hiền từ làm tôi liên tưởng đến những bức tượng Quan Thế Âm Bồ Tát. Tôi nắm lấy tay bà và cảm ơn…”. Xúc động vì tấm lòng của người y tá, tác giả làm một bài thơ đề tựa “Belinda” là tên của bà. Hôm sau, đưa cho bà xem. “Đọc xong, bà cảm động, ôm tôi mà khóc. Bà nói riêng cho tôi biết, bà là nữ Mục Sư đang điều hành một nhà thờ Tin Lành trong thành phố nây. Đúng là bà có Trái Tim của một Nữ Thánh”.
                Mấy ai làm được như vậy nhỉ? Đọc câu chuyện thật nầy bỗng dưng câu Thánh Kinh I Giăng 4:20 như chiếu rọi vào tâm khảm: “Kẻ nào chẳng yêu anh em mình thấy, thi không thể nào yêu Đức Chúa Trời mình chẳng thấy được!”.
                Yêu người như thế cao đẹp là dường bao!

Wednesday, 28 March 2012

NGÔI MỘ TRỐNG


                Trong một chuyến đi Do Thái, tôi đã hai lần đến viếng Ngôi Mộ Trống mà người ta tin rằng đó là ngôi mộ đã từng chôn xác Chúa Giê-xu. Lần thứ nhứt đi cùng phái đoàn, dừng chân khoảng 30 phút, tôi đã vào bên trong ngôi mộ với sự háo hức, tò mò của một khách hành hương. Lần thứ hai tôi trở lại một mình, giành suốt hơn một giờ đồng hồ để quan sát, tìm hiểu và suy nghĩ nhiều hơn về ngôi mộ.
            Ngôi Một Trống ở bên ngoài thành Giê-ru-sa-lem cổ, giống như một cái hang được khoét sâu vào trong một tảng đá lớn, chắc chắn và kín đáo. Đây là cách chôn người chết của giới giàu có thuở xưa. Chỉ cần cúi xuống một chút ta có thể bước vào bên trong, lách mình qua một hành lang nhỏ là vào phần chính của ngôi mộ. Diện tích khá rộng, có thể ba bốn người vào cùng một lúc. Phía cuối có một bục bằng đá cao đến đầu gối, để thân xác người chết nằm. Nếu không có ngọn đèn trên vách, bên trong hẳn rất âm u. Trước cửa mộ là một tảng đá lớn dùng như cánh cửa chắc chắn, một người lực lưỡng cũng khó mà di chuyển. Xung quanh mộ ngày nay là một công viên lớn và đẹp, được chăm sóc kỹ vì là một trong những địa điểm du lịch rất được ưa thích.
            Ngồi trên một ghế đá trước ngôi mộ, thấy từng đoàn người lũ lượt vào ra, tôi chợt nghĩ đến Ma-ri, mẹ Chúa, và những người đàn bà ngày xưa đã can đảm băng mình trong buổi sớm tinh sương mang thuốc thơm đến xức xác Ngài. Hai ngàn năm trước, đây là chốn nghĩa trang hoang dã, sau ba ngày xác đã nặng mùi, nhưng vì lòng yêu mến Ngài, họ không quản ngại hiểm nguy. Mối lo chính của họ là “ai sẽ lăn hòn đá cho chúng ta?” (Mác 16:3). Đâu rồi những môn đệ ngày đêm kề cận, những trang thanh niên lực lưỡng ở độ tuổi ba mươi? Đâu rồi đoàn dân đông từng bám theo Ngài để nghe giảng dạy, để được ăn bánh no nê?  Đâu rồi những kẻ đã được chữa lành mọi tật bịnh, được kêu từ kẻ chết sống lại? Bây giờ ở đây chỉ còn các bà chân yếu tay mềm. Thật,“khi vui thì vỗ tay vào, đến khi hoạn nạn thì nào thấy ai”!
            Ngày nay chúng ta hát nhiều bản hùng ca cho ngày Lễ Phục Sinh. Nhưng thưa bạn, xin hãy nhớ rằng sự sống lại của Chúa Giê-xu đã xảy ra trong âm thầm, lặng lẽ. Khi Ngài khải hoàn bước ra khỏi phần mộ, không có đoàn dân đông reo mừng, không có những môn đệ bước đến bắt tay chúc tụng, không có chính quyền sở tại trao tặng huân chương, không có biểu ngữ hay một lẳng hoa chào đón. Ngài bước ra, để lại một ngôi mộ trống trong lúc nhân loại vẫn ngủ say. Rồi Ngài tự mình bôn ba tìm kiếm, gom góp những bạn hữu đã từng bỏ Ngài trốn chạy. Và cũng tự mình chứng minh cho họ rằng Ngài đã sống lại từ trong kẻ chết!
            Thế mà lạ chưa? Sự phục sinh âm thầm đó lại là khởi điểm của một đợt sóng cuồn cuộn từ năm này qua năm khác, từ thế hệ nầy tiếp nối những thế hệ ngàn sau, chinh phục mỗi tấm lòng, làm bừng sáng mọi tâm hồn tan vỡ và dẫn dắt họ vào cõi vĩnh sinh!
            Tôi ngồi đây, bên Ngôi Mộ Trống, tự thấy mình thân phận khác nào một hạt cát giữa hàng triệu triệu sinh linh. Hạt cát nầy có thể bám vào vách mộ, hằng ngày nhìn thấy hàng hàng lớp lớp khách hành hương bỏ ra rất nhiều tiền bạc và công khó để đến “tìm người sống trong vòng kẻ chết”(Lu-ca 24:5). Hạt cát nầy có thể chỉ rơi vào chiếc giày của khách bộ hành, làm cho họ khổ sở, khó chịu. Hay hạt cát nầy được bám theo gót chân Chúa khi Ngài bước ra khỏi chốn mộ phần, chiến thắng sự chết và dấn thân vào mọi hang cùng ngõ hẻm để truyền bá sứ điệp yêu thương!
            “Ngài không ở đây đâu, Ngài sống lại rồi!” (Ma-thi-ơ 28:6))