Trong một chuyến đi Do Thái, tôi đã hai lần đến viếng Ngôi Mộ Trống mà người ta tin rằng đó là ngôi mộ đã từng chôn xác Chúa Giê-xu. Lần thứ nhứt đi cùng phái đoàn, dừng chân khoảng 30 phút, tôi đã vào bên trong ngôi mộ với sự háo hức, tò mò của một khách hành hương. Lần thứ hai tôi trở lại một mình, giành suốt hơn một giờ đồng hồ để quan sát, tìm hiểu và suy nghĩ nhiều hơn về ngôi mộ.
Ngôi Một Trống ở bên ngoài thành Giê-ru-sa-lem cổ, giống như một cái hang được khoét sâu vào trong một tảng đá lớn, chắc chắn và kín đáo. Đây là cách chôn người chết của giới giàu có thuở xưa. Chỉ cần cúi xuống một chút ta có thể bước vào bên trong, lách mình qua một hành lang nhỏ là vào phần chính của ngôi mộ. Diện tích khá rộng, có thể ba bốn người vào cùng một lúc. Phía cuối có một bục bằng đá cao đến đầu gối, để thân xác người chết nằm. Nếu không có ngọn đèn trên vách, bên trong hẳn rất âm u. Trước cửa mộ là một tảng đá lớn dùng như cánh cửa chắc chắn, một người lực lưỡng cũng khó mà di chuyển. Xung quanh mộ ngày nay là một công viên lớn và đẹp, được chăm sóc kỹ vì là một trong những địa điểm du lịch rất được ưa thích.
Ngồi trên một ghế đá trước ngôi mộ, thấy từng đoàn người lũ lượt vào ra, tôi chợt nghĩ đến Ma-ri, mẹ Chúa, và những người đàn bà ngày xưa đã can đảm băng mình trong buổi sớm tinh sương mang thuốc thơm đến xức xác Ngài. Hai ngàn năm trước, đây là chốn nghĩa trang hoang dã, sau ba ngày xác đã nặng mùi, nhưng vì lòng yêu mến Ngài, họ không quản ngại hiểm nguy. Mối lo chính của họ là “ai sẽ lăn hòn đá cho chúng ta?” (Mác 16:3). Đâu rồi những môn đệ ngày đêm kề cận, những trang thanh niên lực lưỡng ở độ tuổi ba mươi? Đâu rồi đoàn dân đông từng bám theo Ngài để nghe giảng dạy, để được ăn bánh no nê? Đâu rồi những kẻ đã được chữa lành mọi tật bịnh, được kêu từ kẻ chết sống lại? Bây giờ ở đây chỉ còn các bà chân yếu tay mềm. Thật,“khi vui thì vỗ tay vào, đến khi hoạn nạn thì nào thấy ai”!
Ngày nay chúng ta hát nhiều bản hùng ca cho ngày Lễ Phục Sinh. Nhưng thưa bạn, xin hãy nhớ rằng sự sống lại của Chúa Giê-xu đã xảy ra trong âm thầm, lặng lẽ. Khi Ngài khải hoàn bước ra khỏi phần mộ, không có đoàn dân đông reo mừng, không có những môn đệ bước đến bắt tay chúc tụng, không có chính quyền sở tại trao tặng huân chương, không có biểu ngữ hay một lẳng hoa chào đón. Ngài bước ra, để lại một ngôi mộ trống trong lúc nhân loại vẫn ngủ say. Rồi Ngài tự mình bôn ba tìm kiếm, gom góp những bạn hữu đã từng bỏ Ngài trốn chạy. Và cũng tự mình chứng minh cho họ rằng Ngài đã sống lại từ trong kẻ chết!
Thế mà lạ chưa? Sự phục sinh âm thầm đó lại là khởi điểm của một đợt sóng cuồn cuộn từ năm này qua năm khác, từ thế hệ nầy tiếp nối những thế hệ ngàn sau, chinh phục mỗi tấm lòng, làm bừng sáng mọi tâm hồn tan vỡ và dẫn dắt họ vào cõi vĩnh sinh!
Tôi ngồi đây, bên Ngôi Mộ Trống, tự thấy mình thân phận khác nào một hạt cát giữa hàng triệu triệu sinh linh. Hạt cát nầy có thể bám vào vách mộ, hằng ngày nhìn thấy hàng hàng lớp lớp khách hành hương bỏ ra rất nhiều tiền bạc và công khó để đến “tìm người sống trong vòng kẻ chết”(Lu-ca 24:5). Hạt cát nầy có thể chỉ rơi vào chiếc giày của khách bộ hành, làm cho họ khổ sở, khó chịu. Hay hạt cát nầy được bám theo gót chân Chúa khi Ngài bước ra khỏi chốn mộ phần, chiến thắng sự chết và dấn thân vào mọi hang cùng ngõ hẻm để truyền bá sứ điệp yêu thương!
“Ngài không ở đây đâu, Ngài sống lại rồi!” (Ma-thi-ơ 28:6))