LÃNH ĐẠO VỚI THẨM QUYỀN
Trần Thái
Tông tức Trần Cảnh là vua thứ nhất của nhà Trần, sinh năm 1218, làm vua 33 năm,
nhường ngôi cho con và làm thái thượng hoàng 19 năm, băng hà vào năm 1277, thọ
59 tuổi.
Vào những
năm cuối đời Lý, triều đình bị khống chế bởi Trần Thủ Độ, một nhà mưu lược nhiều
thủ đoạn. Trần Thủ Độ đã ép vua Lý gả công chúa Lý Chiêu Hoàng làm vợ cho Trần
Cảnh lúc ông chỉ mới lên 7 tuổi. Đến khi Lý Chiêu Hoàng lên ngôi vua, Trần Thủ Độ
đã ép phải nhường ngôi cho Trần Cảnh, lúc ông 11 tuổi. Năm 1226, Trần Cảnh lên
ngôi, tức Trần Thái Tông, mở nghiệp cho nhà Trần trong lịch sử Việt Nam. Việc
khai sáng vương triều nầy có thể gọi là một vết đen trong trang sử Việt, bởi vì
trăm họ trong nhân gian dị nghị và tôn thất nhà Lý luôn căm phẫn về việc cướp
ngôi.
Được lên
ngôi trong hoàn cảnh nhiễu nhương và thụ động như vậy nhưng Trần Thái Tông đã
phấn đấu, học hỏi và biến mình thành một nhà lãnh đạo xuất chúng của lịch sử,
cho đến nỗi người đời sau nhận xét nhà vua là một đại tướng uy vũ, một minh quân
thần thái, một bó đuốc của thiền học Việt nam, một gương mặt văn hóa đẹp và lạ
thường trong dòng lịch sử dân tộc.
Năm
1258, quân Nguyên từ phương Bắc tràn xuống xâm lấn nước ta, đích thân nhà vua
chỉ huy chiến đấu chống giặc. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư ghi lại rằng: “Vua tự làm
tướng, đi trước, xông pha tên đạn”. Ngày 29-1-1258, Trần Thái Tông cùng thái tử
Hoàng đã phá tan quân Nguyên ở Đông Bộ Đầu, giải phóng Thăng Long, kết thúc cuộc
chiến chống quân Nguyên lần thứ nhứt. Thái Tông trở thành ông vua anh hùng cứu
nước.
Nhưng tên
tuổi Trần Thái Tông lưu truyền còn là một nhà thiền học, một triết gia với những
tư tưởng sâu sắc, độc đáo, và là một nhà thơ trữ tình, trác tuyệt. Ngô Thì Sĩ,
một sử gia vào thế kỷ 18 đã nhận xét vua Trần Thái Tông quả là một con người có
tính cách đặc biệt. Lên làm vua như một người tầm thường, nhưng trị vì ngôi báu
như một người phi thường. Lúc làm tướng thì anh dũng, lúc làm vua thì phú quí
không lấy làm trọng, luôn trau giồi học hỏi, không quản ngại vươn lên. Đúng là
một gương mặt lạ lùng trong dòng lịch sử dân tộc.
Vào thế
kỷ 15 trước Công Nguyên tức cách nay 3500 năm, Đức Chúa Trời đã thực hiện một kế
hoạch giải cứu tuyển dân I-sơ-ra-ên của Ngài ra khỏi vòng xiếng xích nô lệ tại
Ai-cập. Để chuẩn bị cho việc nầy, Ngài đã chọn lựa vị lãnh tụ Môi-se. Và Ngài đã
giành ra 80 năm để trang bị cho chức vụ của ông. Trước hết Ngài cho phép ông làm
con nuôi của công chúa Pha-ra-ôn. Trong 40 năm ở trong cung vua, Môi-se đã thu
nhập chữ viết và một nền văn minh của nhân loại để làm hành trang cho công việc
viết sách Ngũ Kinh. Và sau đó Ngài đưa ông vào sống trong xứ Ma-đi-an hoang dã
40 năm, học nơi đó nếp sống và sự sinh tồn nơi sa mạc, chuẩn bị cho việc dẫn dắt
dân sự 40 năm lang thang trong đồng vắng. Ngày nay nói đến dân I-sơ-ra-ên, ai cũng
thầm cảm phục tầm vóc và thẩm quyền lãnh đạo của Môi-se. Thánh Kinh ghi lại rằng:
“Về sau, trong I-sơ-ra-ên không còn dấy lên
tiên tri giống như Môi-se, mà Đức Giê-hô-va biết giáp mặt. Không có ai bằng người,
hoặc về các dấu kỳ, phép lạ mà Đức Giê-hô-va sai người làm tại trong xứ Ê-díp-tô,
trước mặt Pha-ra-ôn, các quần thần, và cả xứ của người; hoặc hết thảy công việc
lớn lao và đáng sợ mà Môi-se cậy tay quyền năng mình làm tại trước mặt cả I-sơ-ra-ên”(Phục
Truyền 34:10-12).
Thánh
Kinh cho biết rằng Chúa Giê-xu đã chuẩn bị suốt 30 năm cho chức vụ 3 năm rưỡi của
Ngài. Mặc dầu không kể ra chi tiết, nhưng có một câu Kinh Thánh rất xúc tích ghi
lại 30 năm đầu đới của Chúa: “Đức Chúa Giê-xu
khôn ngoan càng th êm, thân hình càng lớn, càng
được đẹp l òng Đức Chúa Trời và người
ta” (Lu-ca 2:52). Và
khi khởi sự giảng dạy, Ngài không chỉ dạy bằng lời, nhưng với thẩm quyền tuyệt
đối. Ma-thi-ơ 7:28-29 chép: “Khi Đức Chúa
Giê-xu vừa phán những lời ấy xong, đoàn dân lấy đạo Ngài làm lạ; vì Ngài dạy như
có quyền, chớ không giống như các thầy thông giáo”. Thẩm quyền là một yếu tố
căn bản của chức vụ Chúa Giê-xu trên đất. Trong tầm vóc xã hội, Ngài chỉ xuất
thân là một người thợ mộc từ thành Na-xa-rét vô danh, nhưng đối diện với Ngài
người ta cảm nhận một sức mạnh siêu nhiên, một kiến thức cao đẹp và uy vũ của một
nhà lãnh đạo. Ni-cô-đem, một nhà cai trị dân I-sơ-ra-ên đã thổ lộ: “Thưa thầy, chúng tôi biết thầy là giáo sư từ
Đức Chúa trời đến, vì những phép lạ thầy đã làm
đó, nếu Đức Chúa Trời chẳng ở cùng, thì không ai làm được” (Giăng
3:2). Và niềm cảm phục đó theo ông qua nhiều năm tháng. Khi người ta định bắt
Chúa Giê-xu, Ni-cô-đem đã đứng ra binh vực (Giăng 7:50-52) và khi Ngài chết trên
thập tự giá, hết thảy môn đồ đều bỏ trốn, thì ông đã tẩm liệm rồi lo chôn cất
Ngài (Giăng 19:38-42).
Thẩm
quyền là yếu tố cần thiết để làm một người lãnh đạo. Hay nói cách khác, không có
thẩm quyền, không có lãnh đạo. Thẩm quyền là sự kết hợp bởi hai yếu tố cần thiết:
thứ nhứt, ta có thẩm quyền lãnh đạo bởi vì ta có chức vụ, có địa vị hay được thụ
phong; thứ hai, ta có thẩm quyền lãnh đạo là do chính con người, cá tánh, và kiến
thức mà ta có. Trên thực tế cho ta thấy điều thứ hai nầy còn quan trọng hơn điều
thứ nhứt. Khi bạn được đắc cử vào một chức vụ, được bổ nhiệm hay thụ phong, là
bạn được giao cho một thẩm quyền lãnh đạo. Nhưng đó chỉ là bước khởi đầu. Thẩm
quyền đó có trở nên thực dụng không, có làm cho người ta cảm phục sự lãnh đạo của
bạn không, là do chính con người của bạn, do tài lãnh đạo của bạn, do cách cư xử
của bạn, do tầm hiểu biết của bạn, do khả năng và kiến thức mà bạn thu thập.
Thiếu những yếu tố đó, dù bạn có chức quyền thì cũng chỉ đủ làm cho người ta trọng,
nhưng sẽ không làm cho người ta phục. Nói một cách khác, chức vụ cho bạn cái vị
thế của người lãnh đạo, nhưng chính những gì bạn học tập, trau giồi, trang bị cộng
với sự thông minh sẵn có, mới cho bạn cái tầm vóc của người lãnh đạo.
Có người quan niệm rằng những môn đồ của Chúa chỉ
xuất thân tầm thường như đánh cá, thu thuế...nhưng họ cũng làm việc lớn cho Ngài,
thi chúng ta đâu cần phải học hỏi nhiều, đâu cần phải trau giồi kiến thức trong
việc lãnh đạo hay phục vụ. Phải, những môn đồ Chúa khởi sự là những người tầm
thường, nhưng suốt ba năm rưỡi họ đã được theo học với một vị Thầy phi thường. Chính
Con Trời đã dạy dỗ, huấn luyện và tập tành họ suốt thời gian chức vụ của Ngài.
Ngày nay, có đại học nào, bằng cấp nào, học vị nào có thể so sánh với những kiến
thức mà họ đã thâu thập từ Vua của muôn vua, Chúa của muôn chúa? Ngài luôn nhắn
nhủ họ: “Hãy học theo Ta”. Học hỏi chính
là bồi đắp, nâng cao thẩm quyền của người lãnh đạo.
Khi chúng
ta nhận lãnh một chức vụ, được bầu vào một công việc, là lúc bắt đầu một tiến
trình học tập. Những tổ chức quân đội trên thế giới, khi một người chỉ huy được
thăng cấp, thì phải tham dự những khóa huấn luyện về tham mưu, về chiến lược, về
thuật chỉ huy v.v...bởi đó thuộc cấp mới tuân lời, vâng lệnh. Người ta nói sự học
như một con thuyền trên dòng nước, không tiến ắt sẽ lùi. Kinh Thánh, sách vở, báo
chí, internet, những khóa huấn luyện, những lớp học ngắn hạn là cơ hội để chúng
ta trau giồi cho chức vụ mà mình đã nhận lãnh. Một khi chúng ta lấy làm hài lòng
về những sự hiểu biết của mình, một khi chúng ta cho là mình đã học đủ, là lúc
chúng ta đang đi thụt lùi, đang làm giảm thẩm quyền của một người lãnh đạo. Sứ
đồ Phao-lô lúc gần qua đời, nhưng vẫn không quên học hỏi. Ông bảo Ti-mô-thê khi
đến thăm ông hãy nhớ đem theo những sách vở, nhứt là những sách bằng giấy da
(II Ti 4:6,13). Ông cũng khuyên Ti-mô-thê “Hãy
chăm chỉ đọc sách” (I Ti 4:13). Một nhà hiền triết Trung Hoa đã nói: “Một
ngày không đọc sách, nói chuyện nghe nhạt nhẽo”.
Chúa Giê-xu
dạy thí dụ về những ta-lâng trong Ma-thi-ơ đoạn 25. Ngài muốn chúng ta phát triển,
làm lợi, không phải chỉ dấu nó. Đầu tư vào việc phát triển khả năng lãnh đạo
trong địa hạt mình đang nắm giữ chính là một trong những cách làm tăng lên ta-lâng
mà mình đã nhận lãnh. Chúa Giê-xu dạy rằng: “Ta
sai các người đi khác nào như chiên giữa bầy muôn sói. Vậy hãy khôn khéo như rắn,
đơn sơ như chim bồ câu” (Mat 10:16). Người lãnh đạo trong Hội Thánh đơn sơ,
không màu mè, không kiêu ngạo nhưng họ là những người khôn ngoan. Sự khôn ngoan
của họ đến từ lòng kính sợ Chúa và được hướng dẫn bởi Lời Ngài. Họ học hỏi mỗi
ngày, luôn trau giồi tầm hiểu biết. Họ chuyên cần trong phục vụ mà cũng dốc lòng
làm lợi thêm những khả năng, ân tứ mà họ đã nhận lãnh. Họ bắt chước Chúa trong
công tác phụng sự giữa những người bình dân, nghèo khốn với tấm lòng mềm mại,
khoan dung. Nhưng họ cũng có thể sẵn sàng đối diện với những nhà trí thức khoa
bảng, những người có địa vị, những cấp cai trị...mà không chút rụt rè hay mặc cảm
thua sút, vì họ biết mình là những đại sứ khôn ngoan của Đấng Chủ Tể muôn loài.
Chức sắc
trong Hội Thánh là những người mang tâm tình của người đầy tớ phục vụ nhưng trong
họ tiềm ẩn một thẩm quyền của những người chăn dắt được chọn lựa và được dạy dỗ
theo cung cách lãnh đạo của Chúa Giê-xu! Ngài là Đấng biến những người đánh cá
tầm thường, những nông dân thô sơ thành những nhà khai sáng và chăn dắt Hội Thánh,
Ngài cũng có thể làm điều đó cho những ai có tấm lòng sẵn sàng học theo Ngài.
No comments:
Post a Comment