Friday, 29 July 2016

LỜI KHẤN NGUYỆN

Chúa Thánh hỡi xin cho con biến đổi
Trở thành người phụng sự giữa trần gian,
Hiến cuộc đời làm khí cụ bình an
Gieo thương mến trong mảnh vườn nhân loại.

Giữa oán thù, đấu tranh, giành danh lợi
Nơi tối tăm, thất vọng, chốn ưu sầu
Con sẽ mang ánh sáng Chúa nhiệm mầu
Chiếu rọi đến những mảnh đời tan vỡ.

Xin dạy con làm suối nguồn an ủi
Hơn mãi tìm thương cảm của tha nhân,
Tâm hồn nầy thấu hiểu nỗi thở than
Hơn đòi hỏi nơi người lòng độ lượng.

Vì con biết hiến dâng là thụ hưởng
Lúc quên mình sẽ gặp lại bản thân
Biết thứ tha, nhận tha thứ bội phần
Khi nhắm mắt là muôn đời bất diệt.


Lê Trần dịch bài thơ “Lời Cầu Nguyện” của thánh Francois, thế kỷ 13.

THIỀN SƯ VÀ TÊN TRỘM

Thiền sư Ryokan trở về sau một cuộc hành trình dài, mong sớm đến túp lều tranh bên sườn núi để nghỉ ngơi. Nhưng khi đến nơi, người nhìn thấy một tên trộm đang lục lọi bên trong chỗ ở của mình, dẫu rằng chẳng có gì để lấy cả. Đứng bên ngoài, thiền sư cởi chiếc áo dài đang mặc, chờ đợi.
Lúc quay ra, tên trộm hốt hoảng, nhưng thiền sư liền nói: “Anh bạn, đường sá xa xôi vất vả lên núi thăm tôi, không đành lòng để anh về tay không. Đêm khuya rồi, anh hãy khoác chiếc áo nầy cho đỡ lạnh”. Tên trộm cầm chiếc áo, xấu hổ, cúi đầu chạy xuống núi không dám nhìn lại.
Ryokan nhìn theo bóng dáng anh ta khuất dần trong núi rừng mờ mịt với lòng thương cảm. Người lắc đầu tự nhủ: “Rất tội nghiệp, ta muốn tặng cho anh cả vầng trăng để chiếu sáng con đường xuống núi”. Vài hôm sau, thiền sư dậy sớm ngắm mặt trời mọc bỗng nhìn thấy chiếc áo dài hôm trước được xếp lại ngay ngắn, đặt trên ghế. Ryokan vui vẻ nói: “Cuối cùng thì ta cũng đã tặng được cho anh cả vầng trăng sáng rồi!”.
La hét, đánh đập, chửi bới khi gặp trộm là phản ứng tự nhiên của mọi người. Làm chủ nội tâm, đối xử như khách quý, thiền sư Ryokan đã vượt lên trên lẽ thường tình của nhân loại. Vị tu sĩ cao thượng biết rằng muốn hoán cải một tội nhân trở nên người lương thiện chỉ bởi tấm lòng hào hiệp, độ lượng. Hơn nữa, cái đẹp huyền diệu và những giờ phút an bình nhìn ngắm trăng lên có giá trị ngàn lần hơn chiếc áo dài đang mặc. Rất tiếc làm sao ta có thể tặng được món quà quý giá đó? Suy cho cùng, ai cũng có thể sở hữu nét tuyệt mỹ của ánh trăng. Điều cần thiết là phải có một tâm hồn giác ngộ, thay đổi, vượt lên trên hệ lụy tầm thường thì mới có thể ngẩn đầu mở mắt mà thưởng ngoạn ánh sáng mầu nhiệm của chị Hằng.

Trong cuộc trò chuyện với giáo sư Ni-cô-đem, Chúa Giê-xu đã truyền dạy một lời khuyên vàng ngọc: “Ánh Sáng trời đã soi chiếu thế giới, nhưng người ta thích bóng tối hơn ánh sáng, không dám đến gần ánh sáng, vì sợ tội ác mình phát hiện. Ngược lại, người làm điều chân thật thích gần ánh sáng, vì ánh sáng phát hiện công việc tốt đẹp họ làm theo ý muốn Thượng Đế” (Giăng 3:19-21 BDY). Bạn đã tiếp nhận Ánh Sáng lạ lùng nầy chưa?

Wednesday, 27 July 2016

NHỚ VÀ QUÊN

Tu sĩ trẻ Minh Nguyện cùng sư phụ trên đường về sau chuyến thăm các thiền sư trên núi. Khi đến bờ suối, họ tình cờ gặp một cô gái đang ngồi khóc. Hỏi ra mới biết nhà của cô bên kia bờ, lúc sáng cô đi qua nước còn cạn, nhưng bây giờ quay về nước đã dâng cao, không thể lội qua được. Cô khổ sở, buồn bã, không biết làm sao về nhà trước khi trời tối.
Vị sư già nói với Minh Nguyện: “Con hãy cõng cô gái nầy qua suối đi, vì con khỏe mạnh hơn ta”. Nhưng Minh Nguyện trả lời: “Bạch thầy, làm như vậy sao được? Giới luật không cho phép chúng ta đụng chạm đến thân thể phụ nữ. Chúng ta là những người tu hành mà. Không được đâu!”.
Cuối cùng, sư phụ đành cõng cô gái qua suối. Đến bờ bên kia, sau khi tiễn cô gái về nhà, thầy trò lại tiếp tục hành trình. Hai người đi bên nhau, nhưng không ai nói một lời nào. Trên nét mặt của Minh Nguyện không dấu vẻ ưu tư, nghĩ ngợi. Về đến cổng chùa, không nín lặng nổi, Minh Nguyện chận tay thầy lại và nói: “Bạch thầy, thầy là người tu hành lâu năm, rành rẽ giới luật, sao thầy lại cõng một cô gái? Con không hiểu thấu”. Vị sư già nhìn đệ tử, ôn tồn nói: “Minh Nguyện à, ta nhớ rằng ta đã để cô gái ấy ở lại bờ suối rồi mà, sao con còn cõng cô ấy cho đến bây giờ?”.
Trong đời sống có những thứ cần nhặt lên đúng lúc và bỏ xuống đúng khi. Câu trả lời của vị thầy hàm chứa cả một nghệ thuật nhân sinh. Đời người khác nào một chặng đường dài, có lúc biết nhặt lên những kinh nghiệm để thêm vào hành trang, nhưng cũng biết vứt bỏ những gánh nặng phiền muộn để tâm hồn thanh thản. Như khi ta tức giận một người, không bỏ qua, chính là cứ mãi mang gánh nặng trong tâm hồn. Bởi vì tức giận là lấy sai lầm của người khác để trừng phạt chính mình. Nhớ những gì cần nhớ, quên những cái đáng quên, sống một đời cởi mở, trong lòng không vướng mắc, thì cuộc đời nầy sẽ tươi đẹp biết bao!

Sứ đồ Phao-lô dưới sự soi dẫn của Thánh Linh, đã khuyên: “Phải loại bỏ khỏi đời sống anh em những điều cay đắng, oán hờn, giận dữ, cãi cọ, phỉ báng và mọi điều xấu xa khác. Phải có lòng nhơn từ, yêu mến nhau, phải tha thứ nhau như Thượng Đế đã tha thứ anh em trong Chúa Cứu Thế” (Ê-phê-sô 4:31-32 BDY).

KINH THÁNH DẠY GÌ VỀ VIỆC UỐNG RƯỢU?

Khi mới định cư tại Úc, tôi có người bạn cũng là dân tị nạn, nhưng không may vợ con anh còn kẹt lại quê nhà. Anh thường uống rượu say mỗi tối. Tôi khuyên, anh trả lời bằng câu nói “Dục phá thành sầu duy hữu tửu” (chỉ có rượu mới phá được nỗi sầu). Ba năm sau, anh bảo lãnh vợ con đoàn tụ, gặp lại, vẫn sáng xỉn chiều say, hỏi sao bây giờ đã đoàn tụ rồi mà vẫn uống rượu? Anh trả lời bằng thơ “Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu, Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi”, nói: bây giờ gặp lại hồng nhan tri kỷ, vui quá nên nhậu. Sáu năm sau, vẫn say khướt, anh trả lời “Nam vô tửu như kỳ vô phong”, nghĩa là người đàn ông không uống rượu giống như cây cờ không có gió. Buồn nhậu, vui nhậu, không vui không buồn cũng nhậu!
Một phóng sự truyền hình năm 2013 cho biết trong một năm người Việt trong nước uống 3 tỉ lít rượu bia. Con số thật kinh khủng. Trung bình mỗi người dân, từ trẻ đến già, uống 32 lít một năm, số một Đông Nam Á.
Kinh Thánh dạy thế nào về việc uống rượu?
Tôi phải nói ngay rằng đọc toàn bộ Kinh Thánh, không có chỗ nào cấm người tín đồ uống rượu! Nghe thế hẳn mấy đệ tử của lưu linh rất vui.  Kinh Thánh còn hàm ý rượu là một món quà từ Chúa (Thi 104:15) và rượu nho sản xuất cây nhà lá vườn là một dấu hiệu của sự chúc phước (Châm 3:10, A-mốt 9:14). Rượu cũng là một thành phần trong của lễ dâng hiến (Dân 28:14) và được phép dùng trong những bữa ăn trước sự hiện diện của Chúa và gia đình (Phuc 14:26).
Tuy nhiên, Cựu Ước rất nhiều lần cảnh cáo việc lạm dụng rượu và khuyên dân sự nên tránh xa thức uống gây phiền nhiễu nầy (Phục 29:6, Châm 20:1, Ê-sai 5:11, 22; 28:7, Mi-chê 2:11). Cựu Ước cũng ghi lại một vài câu chuyện nói lên hậu quả đáng tiếc của người say xỉn, như Nô-ê (Sáng 9:20-25) hay trường hợp loạn luân của Lót (Sáng 19:32-35). Vua Sa-lô-môn nhắc nhở rằng rượu dẫn người ta đến bạo lực (Châm 4:17), hỗn hào (Châm 20:1) và là nguyên nhân của sự nghèo đói (Châm 21:17).
Trong Cựu Ước có ba hạng người không được phép uống rượu. Thứ nhất, các thầy tế lễ không được uống rượu khi đang thi hành nhiệm vụ trong hội mạc, ai vi phạm sẽ chết (Lê 10:9). Thứ hai, vua không được uống rượu khi đang phân xử cho thần dân nghèo khổ (Châm 31:4-5). Và thứ ba, người Na-xi-rê, là người được biệt riêng ra cho Chúa, họ không được uống bất kỳ vật gì gây say, thậm chí không được ăn nho tươi hay nho khô (Dân 6).
Chúa Giê-xu trong thời kỳ Tân Ước đã thực hiện phép lạ đầu tiên là hóa nước thành rượu. Dù giải thích cách nào chăng nữa chúng ta cũng phải nhận rằng Chúa của chúng ta không cấm đoán môn đồ Ngài dùng rượu. Để trả lời thắc mắc tại sao đệ tử của Giăng Báp-tít chọn lối sống khắc khổ của người Na-xi-rê, hoàn toàn kiêng rượu, trong khi môn đồ của Ngài thì tự do ăn uống. Chúa Giê-xu đã trả lời: “Bạn hữu của chàng rể có kiêng ăn được trong khi chàng rể còn ở cùng mình chăng? Hễ chàng rể còn ở với họ chừng nào, thì họ không thể kiêng ăn được chừng nấy” (Mác 2:19). Trong bữa tiệc cuối cùng trước khi chết trên thập tự, Chúa đã dùng rượu để ban cho các môn đệ qua lễ Tiệc Thánh của Ngài.
Sứ đồ Phao-lô nhiều lần cảnh cáo tín đồ về việc say rượu và nghiện rượu (Rô 13:13, Ê-phê-sô 5:18, I Cô 5:11). Ông cũng đưa những kẻ sáng xỉn chiều say vào trong danh sách của những người “chẳng hưởng nước Đức Chúa Trời” (I Cô 6:10). Trong khi nhắn nhủ những lãnh đạo Hội Thánh cần phải tiết độ trong việc ăn nhậu (I Ti 3:3,8; Tít 2:3), nhà truyền giáo lại khuyên một vị mục sư trẻ tuổi tên Ti-mô-thê uống một chút rượu mỗi bữa ăn để giúp cho việc tiêu hóa, vì mục sư nầy hay đau yếu (I Ti 5:23).
Như thế, rõ ràng rằng “say rượu, nghiện rượu” là tội lỗi theo quan điểm của Kinh Thánh. Tuy nhiên Lời Chúa không khẳng định Cơ-đốc nhân có được phép hay không được phép uống rượu. Ngày nay, giữa các giáo hội cũng có quan điểm khác nhau, như Công giáo, Anh quốc giáo, Lutheran cho phép tín đồ và cả cấp lãnh đạo được uống rượu, trong khi những giáo phái khác như Báp-tít, CMA, Church of Christ thì có vẻ cấm đoán. Có người cho rằng tín đồ của Chúa có thể dùng rượu ở mức độ vừa phải. Có người lại chọn lối sống kiêng cử hoàn toàn. Điều đó thực ra là tùy thuộc vào lương tâm của mỗi người.
Cuối cùng, trước những vấn đề trong cuộc đời tin kính tùy thuộc vào lương tâm của từng người, xem xét những đoạn như Rô-ma 14 và I Cô-rinh-tô đoạn 8 đến 10, Kinh Thánh dạy chúng ta hai nguyên tắc cần nhớ:
Nguyên tắc thứ nhất, “Anh em hoặc ăn, hoặc uống, hay làm sự chi khác, hãy vì sự vinh hiển của Đức Chúa Trời mà làm” (I Cô 10:31). Tất cả là “vì Chúa”, vì sự vinh hiển của Ngài. Như thế chúng ta phải tôn trong quyết định của người khác trong việc uống hay không uống, không lên án nhau, không cãi lẫy với nhau (Rô 14:1-4).
 Nguyên tắc thứ hai, “Nhưng hãy giữ lấy, kẻo tự do mình làm dịp cho kẻ yếu đuối vấp phạm” (I Cô 8:9-13). Trước những người mới tin còn yếu đuối, nhạy cảm, một ly rượu không sao, nhưng nếu chúng ta uống đến quên đường về, thì chắc đã làm cho niềm tin của họ bị lung lay.

Nguyện Chúa hướng dẫn mỗi chúng ta theo ý chỉ tốt lành của Ngài. A-men!

Tuesday, 19 July 2016

CÂU CHUYỆN CỦA THIỀN SƯ WON HYO

Cách nay 1300 năm, có một nhà sư người Đại Hàn tên Won Hyo. Khi còn thanh niên, ông là lính trong cuộc nội chiến đẫm máu tại quê hương. Chứng kiến bạo tàn của chiến tranh, thân nhân bị tàn sát, ông cảm nhận lẽ vô thường của kiếp người, quyết tâm lên núi ẩn tu. Dù nghiên cứu hàng ngàn sách vở, Won Hyo vẫn không toại nguyện. Ông nghĩ rằng chỉ ở tại Trung Hoa may ra mới tìm thấy sự giác ngộ thật sự, bèn khăn gói lên đường.
Với túi hành lý trên vai, ngày đi đêm nghỉ, hướng về đất Bắc, hi vọng khôn nguôi. Một hôm băng ngang sa mạc khô cằn, mệt mỏi, đói khát rã rời, vị thiền sư vào trong hang động trú ẩn. Lúc nửa đêm, ông thức dậy, kiệt sức, mò mẩm tìm nước uống. Thình lình giữa bóng tối tay ông chạm vào một cái bát, một cái bát đầy nước. Không nỗi vui mừng nào hơn. Trong cơn tuyệt vọng, nhà sư đã uống cạn cái bát nước. Ngọt lịm làm sao! Ông cảm tạ bề trên cứu mình giữa cơn bi đát nhất của cuộc đời.
Sáng hôm sau, Won Hyo thức dậy mới khám phá rằng hang động đó là một nghĩa trang. Người ta đang bốc mộ. Cái bát đựng nước đêm qua thật ra là chiếc sọ người bị vỡ, trên đó còn dính đầy máu với những con sâu gớm ghiếc bò xung quanh. Ông buồn nôn dữ dội. Và ngay khi há miệng cho cơn ói mửa trào ra, tâm hồn ông bỗng dưng giác ngộ. Đôi mắt vị thiền sư sáng lên, cái nhìn của ông đối với sự vật phút chốc thay đổi. Ông ngộ ra rằng: điều quan trọng không phải là sự vật, mà chính là cái nhìn của ta đối với sự vật. Không phải chỉ là sự hiểu biết của trí tuệ, mà là một cuộc hoán cải nội tâm, một sự thay đổi tận đáy lòng. Đêm qua không thấy, không suy nghĩ, bát nước ấy thật kỳ diệu. Bây giờ vì trí óc nghĩ ngợi, cũng bát nước ấy mà ghê tởm, nôn mửa. Won Hyo không đi Trung Hoa nữa, ông trở lại Đại Hàn vì tìm được câu giải đáp cho những khắc khoải của cuộc đời.

Trong cuộc trò chuyện với giáo sư Ni-cô-đem, Chúa Giê-xu phán dạy: “Ngươi phải sanh lại!”. Ngài kiên nhẫn giải thích cho vị học giả đầy nghi hoặc rằng: “Nếu không tái sanh, thì không thấy được vương quốc vinh quang của Thiên Chúa”. Cùng một con người ấy, dù là địa vị cao sang, tri thức, đạo hạnh, nhưng chưa được Chúa biến đổi, thì vẫn còn ở trong bóng tối vô tri. Cho đến khi quyền phép của Ngài chạm đến tâm hồn, nhận thức được chính mình và nhìn thấy thiên đàng phước hạnh. “Nhưng hễ ai đã nhận Ngài, thì Ngài ban cho quyền phép, để trở nên con cái của Đức Chúa Trời” (Giăng 1:12). Bạn đã trải nghiệm điều nầy chưa?

CHIẾC GƯƠNG THẦN

Karma Udi là một tu sĩ nhiệt thành với niềm tin tôn giáo. Thuở thanh xuân ông đã phát nguyện quyết tâm lên núi tầm sư học đạo. Sau nhiều năm khổ luyện, tự thấy mình đã đầy đủ bản lĩnh, thấu hiểu lòng người, bèn xin thầy cho phép hạ san. Dù biết tâm thức còn non trẻ của đệ tử, sư phụ cũng miễn cưỡng nhận lời. Ngày từ giã, vị tăng già tặng cho thiền sư một chiếc gương thần, có thể soi thấu tâm can của người đối diện.
Đi ròng rã mấy ngày trời, hôm nọ Karma Udi gặp một triết gia mặt mày sáng láng đang hùng biện về học thuyết huyền nhiệm. Dân chúng say mê theo dõi, rót vào tai những lời châu ngọc. Thiền sư Udi dừng lại rất lâu để lắng nghe. Nhưng để chắc chắn về tư cách của triết gia, ông lấy chiếc gương thần soi vào xem thử. Bất ngờ, trên gương hiện lên một con quỷ dữ tợn với răng nanh mã tấu. Thiền sư khám phá rằng dù bề ngoài rất đạo mạo, uyên thâm, nhưng thật ra triết gia kia chỉ là một kẻ giả nhân giả nghĩa. Từ đó, hễ cứ gặp ai, Karma Udi cũng giơ chiếc gương ra, và chỉ thấy toàn sói đội lốt chiên.
Cuối cùng ông mừng rỡ gặp một nhà tu hành hiền hòa, đức cao trọng vọng, thường dạy dỗ chúng sinh con đường giải thoát. Nhưng khi đến gần, soi gương thần, người thầy khả kính kia cũng hiện hình là một con cọp hung ác mang hình hài của một vị chân tu. Quá thất vọng, thiền sư trẻ quyết định trở về với cõi thần tiên yên tĩnh cùng sư phụ trên núi.
Đang lúc ngồi nghỉ bên bờ suối, Karma Udi tò mò lấy chiếc gương ra, rọi vào chính mình. Bỗng dưng mặt mày tái mét, run rẩy sợ hãi, vì trên mặt gương hiện ra một con ác quỷ gian ác, kinh tởm, ghê sợ hơn hết mà ông từng thấy. Từ trước đến nay ông mãi soi gương vào người khác, mà không rọi vào chính mình!

“Các ngươi đừng đoán xét ai, để mình khỏi bị đoán xét. Sao ngươi dòm thấy cái rác trong mắt anh em ngươi, mà chẳng thấy cây đà trong mắt mình. Hỡi kẻ giả hình! Trước hết phải lấy cây đà khỏi mắt mình, rồi mới thấy rõ mà lấy cái rác khỏi mắt anh em mình được”. Lời của Chúa Cứu Thế Giê-xu, chép trong phúc âm Ma-thi-ơ 7:1-5.



Wednesday, 13 July 2016

LỢI ÍCH CỦA MÙA ĐÔNG

Mùa Đông đến cho đời thêm băng giá,
Những hàng cây trở gió thấy lạnh lùng.
Buổi chiều về mái tóc đẫm mưa giông,
Đời lữ thứ miên man nhìn mây rớt.

Mùa Đông đến, nhiều người không vui. Ai cũng ước ao những ngày nắng ấm và thầm trách Đấng Tạo Hóa tạo ra chi mấy tháng giá rét làm xót xa nhân loại? Nhưng nếu biết sự hữu ích của ba tháng lạnh, Bạn sẽ vui vẻ đón chào mỗi lúc Đông sang.

Trong cơ thể con người có hai loại mỡ mà ta gọi là “chất béo nâu” và “chất béo trắng”. Khi được kích hoạt, chất mỡ nâu sẽ đốt cháy chất mỡ trắng, làm cơ thể thon gọn, khỏe mạnh mà không cần đến thể dục hay ăn kiêng. Thời tiết lạnh chính là sự kích hoạt hữu ích đó. Bạn có để ý thấy mình thon thả hơn sau ba tháng mùa Đông?

Thời tiết lạnh giúp con người gần gũi nhau hơn. Lúc ấy ta thích cuộn mình trong chăn ấm, trò chuyện rất lâu trên điện thoại với người thân và bạn hữu. Nhất là vợ chồng, thay vì “đâu lưng”, cả hai sẽ có ý muốn tìm đến nhau, xích lại gần nhau.

Có một số loài côn trùng sinh sôi rất mạnh trong khí hậu ấm áp, gây bịnh tật cho con người. Nhà khoa học cho biết nhờ khí hậu lạnh giá của mùa Đông giết chết một số loài sâu bọ có hại, giúp ích cho sức khỏe nhân loại. Y học khám phá ở nhiệt độ rất thấp của mùa Đông mà cơ thể con người giảm bớt một số chứng đau đớn, viêm nhiễm.

Chuyên gia tâm lý còn dẫn đến kết luận rằng thời tiết ấm áp suốt mười hai tháng có vẻ dễ chịu nhưng thực sự không làm cho ta hạnh phúc. Chính bởi sự run rẩy trong những ngày lạnh giá rồi sau đó tận hưởng mùa Xuân nồng ấm có ảnh hưởng tốt cho tinh thần hơn là chỉ một kiểu thời tiết quanh năm.

“Tôi cảm tạ Chúa, vì tôi được dựng nên cách đáng sợ lạ lùng. Công việc Chúa thật lạ lùng, lòng tôi biết rõ lắm!” (Thi Thiên 139:14).



Tuesday, 5 July 2016

TẠ ƠN CHÚA TRONG MỌI HOÀN CẢNH


Matthew Henry là nhà truyền giảng và là học giả Kinh Thánh nổi danh vào thế kỷ 18. Một ngày kia trên đường ông bị bọn cướp hành hung, trấn lột. Về nhà với thân thể bầm giập, đau đớn. Nhưng tối hôm đó ông ghi vào cuốn nhật ký như sau:
“Xin cho tôi hết lòng cảm tạ Chúa. Ngài đã cho tôi bốn điều hôm nay:
Thứ nhất, đây là lần đầu tiên tôi bị cướp. Trước đây tôi chưa hề nếm trải kinh nghiệm nầy.
Thứ hai, dầu bọn cướp lấy mất ví tiền của tôi, nhưng chúng không cướp đi mạng sống tôi.
Thứ ba, mặc dù tôi bị chúng trấn lột hết, nhưng những mất mát không đáng giá là bao.
Thứ tư, tôi là người bị cướp, chứ không phải là người đi ăn cướp!”
Trong thư gửi cho Hội Thánh tại Tê-sa-lô-ni-ca, Phao-lô viết: “Phàm làm việc gì cũng phải tạ ơn Chúa, vì ý muốn của Đức Chúa Trời trong Đức Chúa Giê-xu Christ đối với anh em là như vậy” (5:18). Vị sứ đồ hàm ý khuyên nhủ rằng dù trong cảnh ngộ nào, chúng ta cũng nên vui mừng cảm tạ Chúa.
Cảm tạ Chúa khi quần áo mình bị chật, vì điều đó chứng tỏ mình no đủ.
Cảm tạ Chúa dù vất vả dọn dẹp sau bữa tiệc, vì điều đó cho thấy mình còn có bạn bè và người thân bên cạnh.
Cảm tạ Chúa dù chỉ kiếm được chỗ đậu xe ở bãi cuối cùng, vì mình còn có sức khỏe để bước đi trên đôi chân.
Cảm tạ Chúa khi nghe có người phê phán, chỉ trích chính phủ, vì chứng tỏ mình đang sống trên một đất nước tự do, có thể nói lên quan điểm, phát biểu ý kiến mà không phải lo sợ, bắt bớ.
Cảm tạ Chúa khi nghe tiếng đồng hồ báo thức mỗi buổi sớm mai, vì biết rằng mình vẫn còn sống.

“Cảm ơn Ngài mỗi sớm mai thức dậy, con có thêm ngày nữa để yêu thương!”.