Sunday, 28 December 2014

‘XIN LỖI THUÊ”



Với nhiều người, “xin lỗi” là một chữ đôi khi rất khó nói ra. Cho nên hiện nay ở Nhật người ta thành lập những công ty “Xin Lỗi Thuê” để thay cho thân chủ nói lời xin lỗi khi cần thiết. Thông tin cho biết càng ngày càng có nhiều người Nhật tìm người “cúi đầu” thay cho mình, nhất là trong những trường hợp họ cảm thấy sợ hãi, xấu hổ hoặc thiếu kiên nhẫn nếu tự mình cầu xin sự tha thứ.
Dịch vụ nầy rất đa dạng, bởi vì nhiều khi nhân viên của họ phải đóng giả làm thân chủ, giả làm người nhà, có khi công khai có lúc lén lút, tùy vào hoàn cảnh mà xử sự. Và dĩ nhiên cái giá để trả cho việc hạ mình xin lỗi giùm nầy không rẻ chút nào. Chẳng hạn 25.000 yen (khoảng 240 dollars) cho một lần xin lỗi trực tiếp, 10.000 yen ($96) xin lỗi qua email hoặc điện thoại. Đó là những công ty nhỏ, riêng các công ty lớn tính đến 700.000 yen ($6.700) một giờ để làm bất cứ chuyện gì cần thiết cho một dịch vụ. Riêng công ty Yakohama Benriya Natchan còn cung cấp dịch vụ “vừa xin lỗi vừa…khóc” để bảo đảm làm vui lòng những người đang vô cùng tức giận. Tất cả đều quảng cáo rằng họ sẽ làm hài lòng khách hàng gặp phải tình trạng khó khăn khi nói lời xin lỗi, vì lời của họ đưa ra thích hợp với từng hoàn cảnh sẽ tác dụng nhiều hơn.
Nhân viên của những dịch vụ “xin lỗi thuê” được đào tạo rất chuyên nghiệp. Họ có thể “hóa thân” làm cha, làm mẹ đến trường bảo lãnh con cái, hoặc gặp người yêu của con mình để năn nỉ chia tay. Giả làm chồng hoặc vợ xin phép nghỉ bịnh v.v... Điều ngạc nhiên có đến 40% khách hàng là phụ nữ trong lứa tuổi 20 đến 40 nhờ đến những chuyên viên nầy vì gặp rắc rối tình cảm, gia đình và tiền bạc.
Một số người tán thành sáng kiến thành lập dịch vụ. Họ cho đây là ý tưởng thông minh, nhằm giảm thiểu áp lực cuộc sống cho con người hiện đại, nhất là giới phụ nữ luôn bị đè nặng bởi những truyền thống Nhật Bản lâu đời. Nhưng dĩ nhiên các công ty nầy hoạt động dựa trên sự lừa dối và do đó không thiếu lời chỉ trích từ dân chúng Nhật. Nhiều ý kiến phản đối cho rằng thà không nói lời xin lỗi còn hơn đưa ra lời xin lỗi giả tạo. Ngay cả một lời xin lỗi căn bản của cá nhân mà không giải quyết nổi, thì làm sao tự thay đổi bản thân cho nhiều lầm lỡ khác trong đời?

Bạn có biết đến một lời xin lỗi nào trong Thánh Kinh không? Khi người con trai hoang đàng trở về nhà cha, anh ta đã nói: “Cha ơi, con đã đặng tội với trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con của cha nữa”. Lời xin lỗi đó đã được đáp ứng bằng sự khoan dung, tha thứ: “Con ta đây đã chết mà bây giờ lại sống, đã mất mà bây giờ lại thấy được”. (Lu-ca 15:11-24). Thiết tưởng nếu chúng ta trông mong sự tha thứ từ thiên thượng, thì không một dịch vụ nào có thể làm giùm thay, mà chính mình phải trực tiếp đến với Thiên Chúa Từ Ái để thưa với Ngài một lời xin lỗi! Bạn có muốn làm điều đó ngay hôm nay chăng?

Thursday, 11 December 2014

HÃY THẮP LÊN MỘT QUE DIÊM

Tại vận động trường Los Angeles, một đêm nọ ông John Keller được mời diễn thuyết trước đám đông trên 100.000 người. Nửa chừng trong bài nói chuyện, ông dừng lại và tuyên bố:
-Xin Quý Vị đừng sợ nhé! Tôi sắp cho tắt hết đèn trong sân vận động nầy.
Đèn tắt. Mọi người chìm vào bóng tối âm u. Ông John Keller nói:
-Tôi sẽ đốt lên một que diêm. Những ai thấy ánh lửa que diêm cháy thì vui lòng la to: “Đã thấy!”.
Ông đốt một que diêm. Cả sân vận động vang lên: “Đã thấy!”. Rồi đèn bật sáng trở lại. John Keller giải thích:
-Ánh sáng của một hành động nhân ái dù bé nhỏ như một đóm lửa của que diêm cũng sẽ chiếu sáng trong đêm tối trần gian như vậy.
Ông lại cho tắt đèn một lần nữa. Trong bóng tối, ông nói:
-Những ai ở đây đang có diêm quẹt, xin hãy đốt lên.
Bỗng chốc cả vận động trường rực sáng. John Keller kết luận:
-Nếu tất cả chúng ta cùng hợp lực với nhau có thể chiến thắng bóng tối của hận thù, chiến tranh, nghèo đói, bệnh tật bằng những đóm sáng nhỏ của tình thương, sự tha thứ và lòng quãng đại. Hòa bình không chỉ là vắng bóng của chiến tranh, vì con người cứ mãi làm khổ cho nhau, áp bức nhau. Cách tốt nhất để kiến tạo hòa bình là tăng thêm thật nhiều hành động yêu thương. Những việc làm nhân ái sẽ như những đóm sáng nho nhỏ của que diêm, nhưng nếu ta cùng chung sức đốt lên sẽ hợp thành sức mạnh xua tan màng đêm đau khổ, bạo tàn.
Bạn thân mến,
Có một câu nói rất hay mà chúng ta thường lấy làm tâm đắc: “Thà đốt lên một ngọn nến, hơn là ngồi đó nguyền rủa bóng tối”.
-Hãy thắp lên ngọn nến phục vụ để xua tan bóng tối ích kỷ, tham lam.
-Hãy thắp lên ngọn nến chân thật để xua đi bóng tối lọc lừa, gian trá.
-Hãy thắp lên ngọn nến yêu thương giữa màng đêm hận thù, chia rẽ.
-Hãy thắp lên ngọn nến thủy chung trong xã hội dẫy đầy phản bội.
Làm như thế ta sẽ thấy hoa hạnh phúc nở rộ, niềm mơ ước hòa bình đơm bông kết quả.

“Không ai thắp đèn rồi đậy kín, nhưng đem đặt trên giá đèn để soi sáng mọi người trong nhà” – Lời phán của Chúa Cứu Thế (Lu-ca 8:16-BDY).

Monday, 8 December 2014

SỐNG CÔ ĐỘC, CHẾT CÔ ĐƠN

Theo thống kê mới nhất cho biết tại tiểu bang Victoria có khoảng 500.000 người sống lẻ loi một mình. Nhưng điều đau buồn hơn nữa là bảng tường trình đó còn kể ra rằng hằng năm có hơn 100 người chết tại nhà mà không ai biết cho đến nhiều tuần lễ sau mới khám phá ra.
Những trường hợp đáng nói như bà Phyllis Kelly qua đời trong căn nhà trị giá triệu đô tại vùng Fitzroy vào tháng 4 năm 2013 mà đến 18 tháng sau mới được phát giác. Hay bà Elizabeth Morcombe chết 6 tuần người ta mới biết đến. Và nhiều nữa không kể hết. Mới đây Cơ quan Điều Tra Victoria cho công bố dữ kiện của năm 2011 đã có 104 cư dân qua đời vì bị giết hay tự tử trong lứa tuổi trên 50 và nhiều tuần sau mới có người biết đến.
Một trong những nguyên nhân là càng ngày càng có nhiều người già chọn sống trên những chung cư nhiều tầng và chọn lối sống một mình. Vì thế người ta khuyên rằng các bậc lớn tuổi ở những nơi đó nên làm quen với láng giềng và liên lạc thường xuyên với người thân. Bởi vì hàng xóm dễ phát hiện những sinh hoạt bất thường của người đó trước khi gọi cảnh sát đến.
Phần lớn thương vong cô đơn xảy ra trong nội thành Melbourne và đa số là do bịnh suy tim. Số lượng nam giới chết một mình cao gấp ba lần nữ giới. Họ sống như chiếc lá cuối thu và ra đi lặng lẽ, không một người thân yêu bên cạnh.

Cầu mong cho những bậc cao niên cô độc tìm thấy sự an ủi ở lúc cuối đời bằng lời hứa quý báu từ Chúa Giê-xu: “Ta không để các con mồ côi đâu, Ta sẽ đến cùng các con”. (Giăng 14:18).

Tuesday, 2 December 2014

TRỢ TỬ - EUTHANASIE

Gần đây người ta hay bàn tán đến vấn đề “trợ tử”. Khi một bệnh nhân đã tới thời kỳ quá nặng, kéo dài giai đoạn cuối đời trong đau đớn, những người xung quanh hay các bác sĩ, y tá có thể nào “giúp” người đó ra đi cách nhẹ nhàng và mau chóng hơn không? Nhất là ngành y khoa hiện đại có đầy đủ phương tiện để gây nên một cái chết dịu dàng, êm ái.
Euthanasie, tiếng Việt dịch là “trợ tử” là một từ ngữ Hi-lạp, xuất hiện vào thế kỷ 17, có nghĩa là “làm cho chết tốt đẹp” (Eu là tốt, thanazein là chết), tức là một hành động dùng thuốc men hay một cách nào đó gây nên cái chết êm thắm cho một bệnh nhân không chữa được, đang chờ chết cách vô cùng khổ sở. Người ta gọi đó là giết người vì thương hại hay vì nhân đạo.
Cũng cần phân biệt hai loại: trợ tử tích cực và trợ tử thụ động. Tích cực là gây nên một cái chết bằng một hành động, như cho uống một liều thuốc. Thụ động là ngưng mọi điều trị để cho người bệnh được chết cách tự nhiên. Ngoài ra còn trợ tử tự nguyện không tự nguyện. Tự nguyện là do người bịnh yêu cầu một cách rõ ràng, với sự chấp thuận sáng suốt. Không tự nguyện là trợ tử trên bệnh nhân trong tình trạng hôn mê, lú lẫn, không còn khả năng yêu cầu nữa.
Trong lịch sử y khoa, vấn đề nầy đã từng gây tranh luận. Vị tổ của ngành y học Tây phương là Hippocrate đã viết trong lời tuyên thệ rằng “không bao giờ cho ai một liều thuôc độc, dù người đó yêu cầu, và không bao giờ gợi ý về điều đó”. Nhưng về sau các thầy thuốc có khuynh hướng ủng hộ vấn đề trợ tử, như bác sĩ Francis Bacon vào năm 1623 đã viết: “Phận sự của người thầy thuốc không phải chỉ là chữa khỏi bệnh tật, mà còn làm vơi dịu những khổ đau do bệnh tật gây nên. Và không phải chỉ làm vơi dịu khổ đau và khỏi bệnh, mà còn đem lại cho bệnh nhân, khi không còn hi vọng sống sót, một cái chết êm ái và an lành. Trợ tử như vậy là một phần không nhỏ của hạnh phúc ".
Ngày nay luật pháp của đa số các nước trên thế giới vẫn còn cấm trợ tử, ngoại trừ Thụy Sĩ, Hòa Lan, Bỉ và 4 tiểu bang của Hoa Kỳ: Oregon, Washington, Montana và Vermont. Bởi vì xét cho cùng chúng ta mới thấy rằng trợ tử là một trong những vấn đề phức tạp nhất trong xã hội, liên quan tới nhiều lãnh vực của cuộc sống như khoa học, kỹ thuật, kinh tế, văn hoá, đạo đức, tôn giáo, luật pháp v.v…
Theo Bạn thì sao? Nên hay không trong vấn đề “trợ tử”? Hãy viết cho chúng tôi ý kiến của Bạn và gửi về email tomtranaustralia@gmail.com.

Chân thành cảm ơn.

Wednesday, 19 November 2014

TỪ BÃI RÁC ĐẾN ĐẠI HỌC HARVARD



Mỗi ngày trong đời là một ngày khó khăn cho sự sống còn của cậu bé 8 tuổi Justus Uwayesu. Riêng những ngày Chúa Nhật còn khổ sở hơn gấp bội. Vì những ngày nầy xe đổ rác không làm việc, nghĩa là thực phẩm không được “giao đến” bãi rác thành phố Kigali, nơi đứa bé mồ côi cả cha lẫn mẹ đang trú ngụ.
Vào năm 1994, một cuộc diệt chủng xảy ra giữa hai bộ tộc tại đất nước Rwanda. Cha mẹ của Justus lần lượt bị thủ tiêu, để lại bốn đứa con thơ dại. Bấy giờ Justus chỉ mới được 2 tuổi. Đến năm 8 tuổi, cậu bé lê thân hơn 100 cây số, từ nơi sinh quán đến thủ đô Kigali, và cuối cùng dung thân nơi bãi rác của thành phố. Thức ăn hằng ngày là cơm thừa canh cặn còn sót lại trong đó, mà phải nhanh tay, nếu không những con heo sẽ giành mất.
Căn nhà của Justus bây giờ là chiếc xe hơi bị đốt cháy, không có cửa kiếng, không có bánh xe, nhưng là chỗ để trú mưa, tránh nắng, nhất là cái lạnh, cái nóng thấu xương của vùng nhiệt đới. Không có nước, tất cả đều không bao giờ tắm.
Nhưng rồi, phép lạ xảy ra. Một ngày Chúa Nhật, cô Clare Effiong được một chiếc taxi chở trên con đường mịt mù bụi bặm. Cô là nhân viên thiện nguyện của Mỹ, người được mệnh danh là “kẻ làm việc tốt cho đời”, đã chọn Rwanda để tìm giúp những trẻ thơ bất hạnh. Chạy ngang bãi rác, cô chợt thấy một đám trẻ con và yêu cầu tài xế ngừng lại.  Qua lời người thông dịch, cô hỏi “các em muốn gì?”, tất cả đều xin tiền, quần áo. Chỉ riêng một mình Justus nói “Con muốn đi học”. Đọc được nỗi khát khao trong lòng cậu bé, Cô Clare Effiong bảo Justus lên xe, cùng đi với cô.
Justus được tắm rửa, thay quần áo, sau đó cô Clare chở đến nhà một người bạn và nói với ông ta: “Hãy cho cậu bé nầy đến trường, tôi sẽ trả học phí, tập vở, quần áo, giày dép, và mọi tốn phí khác”. Từ đó đến nay, cậu bé luôn trân quí những ngày tháng học hành và không quên mình đã được thoát ra khỏi chốn bần khổ, nghèo hèn.
Ở bãi rác, Justus chỉ nói một thổ ngữ Rwanda. Nhưng khi ở bậc trung học, cậu nói được 5 ngôn ngữ thông dụng trên thế giới. Ngoài ra, cậu rất giỏi về toán, hóa học, ngôn ngữ, thuật lãnh đạo, được chọn là một trong 30 học sinh có thành tích xuất sắc để nhận học bổng thế giới. Vào ngày 22 tháng 10 vừa qua, đại học Harvard lừng danh của Mỹ đã quyết định cấp học bổng toàn phần cho người sinh viên ưu tú nầy.
Khi nhìn thấy bức thư của vị Giám Học trường Harvard với dòng chữ đầu “CHÚC MỪNG”, Justus đã khóc òa trong nỗi vui mừng, lăn lộn trên sàn nhà như một đứa trẻ thơ. Người đầu tiên cậu gọi điện thoại báo tin là cô Clare Effiong với đôi dòng lệ: “Mom, Mẹ ơi, con sẽ đi học tại Harvard!”.
Tốt nghiệp trung học, cậu được học bổng dành cho sinh viên tài năng. Sau 13 năm thoát khỏi bãi rác, cậu đã trưởng thành qua nhiều trường học hàng đầu tại Rwanda. Cậu học nhiều ngôn ngữ, dạy kèm học sinh trung học, thành lập một quỹ từ thiện để giúp học sinh nghèo. Và bây giờ, cánh cửa của một đại học lừng danh rộng mở chào đón cậu sinh viên xuất thân từ bãi rác! Tất cả bắt đầu từ lòng hào hiệp, rộng lượng của một người xa lạ.

“Hễ các ngươi làm điều nầy cho một người hèn mọn của anh em Ta, là đã làm cho chính mình Ta vậy!”. Thánh Kinh - Ma-thi-ơ 25:34-40.

ĐỒNG HỒ ĐẮT GIÁ


Ngày 9 tháng 11, 2014 vừa qua, chiếc đồng hồ có tên “Henry Graves Supercomplication” được bán với giá 24 triệu dollars, đạt kỷ lục đắt nhất trong lịch sử.
Chiếc đồng hồ nầy được làm bởi Patek Philippe. Năm 1925 một chủ ngân hàng tên Henry Graves yêu cầu ông thực hiện một chiếc đồng hồ đặc biệt. Sau gần ba năm nghiên cứu và mất năm năm thiết kế, cho đến 1933 mới hoàn tất. Suốt 60 năm sau đó, nó giữ danh hiệu là chiếc đồng hồ đa năng nhất thế giới.
Đồng hồ “Supercomplication” nầy có hai mặt, cả thảy 24 chức năng, gồm cả chuông báo giờ, lịch vạn niên, giờ mặt trời mọc lặn, mặt trăng tròn khuyết, so sánh múi giờ trên thế giới, bản đồ biến đổi bầu trời của thành phố New York v.v…
Cho đến nay đã hơn 80 năm nhưng chiếc đồng hồ có 900 bộ phận làm bằng tay nầy vẫn còn chạy rất tốt, được kể là một trong những cổ vật quý hiếm nhất của nhân loại. Người mua nó là một nhà kinh doanh đồng hồ nổi tiếng: ông Aurel Bacs.
Đồng hồ quý ai cũng muốn có. Nhưng thứ mà đồng hồ chỉ ra lại càng quý hơn nữa. Đó là thời gian. Chúng ta có thể không sở hữu một đồng hồ đắt giá. Nhưng tất cả đều sở hữu năm tháng của cuộc đời. Sứ đồ Phao-lô nhắc nhở: “Hãy lợi dụng thì giờ, vì những ngày là xấu”. Ê-phê-sô 5:16.
Bạn có thắc mắc tại sao Phao-lô viết “Vì những ngày là xấu”? Ông muốn nói gì?
Xin hãy viết cho chúng tôi cách giải thích của Bạn và gửi về email: tomtranaustralia@gmail.com.

Rất cảm ơn và xin Chúa ban mọi phước lành trên Bạn cùng gia quyến.

Friday, 31 October 2014

TÔN GIÁO KHÔNG CÒN HẤP DẪN NỮA!

Một bản tin trên báo Herald Sun ngày 17 tháng 9 năm 2014 cho biết 63 phần trăm dân chúng Úc chống đối việc giảng dạy tôn giáo trong các trường tiểu học. Và như thế các trường công lập nay mai sẽ chấm dứt môn học về Cơ-đốc-giáo.
Nhiều bậc phụ huynh bày tỏ ý kiến rằng các giờ dạy về Đạo thực ra chỉ nhằm truyền bá cho trẻ em những “huyền thoại siêu nhiên” hoặc là “điều ngớ ngẩn vô lý” của những người tự xưng mình là “bậc đạo đức hơn thiên hạ”.
Sắp tới đây Bộ Giáo Dục Victoria sẽ công bố bảng tường trình chi tiết về những trường học đang dạy môn “tôn giáo đặc biệt”, thường được gọi là SRI (special religious instruction), sau khi luật mới cho phép vị hiệu trưởng được quyền hủy bỏ môn học nếu có quá ít học sinh tham dự hay thiếu thốn tài liệu giáo khoa.
Điều làm các bậc cha mẹ phản ứng tiêu cực nhất chính là phương pháp dạy dỗ giáo lý của những thầy cô. Dường như phụ huynh chỉ muốn dạy dỗ con em mình những điều thực tế trong đời hơn là các giáo lý có tính cách huyền thoại. Không phải chỉ người ngoại đạo, mà ngay cả những người đã từng đi nhà thờ cũng tỏ ra chống đối việc giáo dục nầy! Một bà mẹ có thân phụ là một Mục Sư đã phát biểu: “Tôi không thích các con mình mang về nhà những tư tưởng như Chúa dựng nên vũ trụ 6 ngày, hay nếu làm gì sai quấy phải xuống địa ngục. Đó là lối dạy nông cạn về cuộc đời mà tôi không muốn chúng học hỏi”.
Sẽ không ngạc nhiên khi biết rằng Úc là nước vẫn thường tự nhận là một “quốc gia Cơ-đốc giáo” nhưng sự thật số tín đồ mỗi năm một giảm. Cuộc điều tra dân số vào năm 1911 cho biết có 96% tin vào Thiên Chúa. Nhưng 100 năm sau, tỉ lệ nầy chỉ còn 61%. Càng ngày càng có thêm người Úc tuyên bố mình không thuộc về một tôn giáo.

Hai ngàn năm trước, sứ đồ Phao-lô đã nhắc nhở môn đệ Ti-mô-thê rằng trong ngày sau rốt người ta “ưa thích sự vui chơi hơn là yêu mến Đức Chúa Trời, bề ngoài giữ điều nhơn đức, nhưng chối bỏ quyền phép của nhơn đức đó” (II Ti-mô-thê 3:4-5). Rồi ông khuyên: “Về phần con, hãy đứng vững trong những sự con đã đem lòng tin chắc mà học và nhận lấy (câu 14). Đứng vững trong niềm tin giữa một thế giới khước từ Đức Chúa Trời có dễ dàng không?

Tuesday, 21 October 2014

MALALA YOUSAFZAI



Thứ Sáu, ngày 10 tháng 10 năm nay, cô Malala Yousafzai người Pakistan đã được trao giải Nobel Hòa Bình cùng với ông Kailash Satyarthi. Cô là người trẻ tuổi nhất trong lịch sử được nhận vinh dự lớn lao nầy. Bây giờ, trong danh sách những bậc vĩ nhân thế giới đã từng nhận giải Nobel như Martin Luther King, Nelson Mandela, Mẹ Teresa v.v…có thêm tên của một cô bé 17 tuổi tên là Malala.
Hai năm trước, lúc mới 15 tuổi Malala đã bị quân khủng bố Taliban bắn vào đầu bởi vì từ năm 11 tuổi cô đã tranh đấu cho các em gái nhỏ ở Pakistan được quyền đi học. Điều nầy đi ngược lại với chủ trương của quân Taliban Hồi Giáo là cấm các em gái đến trường. Sau khi rời bệnh viện, Malala tiếp tục chiến dịch vận động, trở thành tiếng nói tiên phong cho quyền được giáo dục của học sinh phái nữ.
Hôm quyết định tặng giải cho Malala, ủy ban Nobel đã phát biểu: “Mặc dầu còn rất trẻ, Malala Yousafzai đã tranh đấu trong nhiều năm cho quyền được đến trường của các trẻ em gái. Cô là tấm gương chứng minh rằng trẻ em và thế hệ trẻ cũng có thể đóng góp cải thiện hoàn cảnh của chính mình. Malala đã làm điều đó trong những điều kiện vô cùng nguy hiểm. Qua cuộc tranh đấu hào hùng đó, cô đã trở thành phát ngôn viên hàng đầu cho quyền của những em gái được đến trường, theo đuổi việc học”.
Malala hiện đang theo học tại Anh quốc. Cô tự nhận mình không xứng đáng với giải thưởng vinh dự nầy, nhưng xem đây là một khích lệ lớn lao vì biết rằng mình không cô đơn trên con đường tranh đấu!

Sứ đồ Phao-lô đã từng ví những người trẻ tuổi dấn thân cho công việc Nhà Chúa như những chiến sĩ ngoài sa trường. Và ông ngày đêm khuyên nhủ họ: “Hãy cùng ta chịu khổ như một người lính giỏi của Đức Chúa Giê-xu Christ” (II Ti-mô-thê 2:3). Có cuộc chiến đấu nào không phải đổ máu, hi sinh? Càng nhiều gian truân thì chiến thắng sẽ càng lắm vinh quang!

Tuesday, 14 October 2014

PHƯƠNG PHÁP COUÉ



Xin mời Bạn đọc câu chuyện “Chiếc Lá Cuối Cùng”: Một cô bé bị bịnh nan y, bác sĩ chịu thua, không chữa được. Bệnh viện sắp xếp cho cô nằm một căn phòng gần cửa sổ. Trước mặt cô là một cây sum sê, xanh tốt. Nhưng khi mùa Đông đến, lá bắt đầu rụng. Cô nhìn qua cửa sổ, đếm từng chiếc lá vàng rơi. Trong nỗi đau tuyệt vọng, cô nói với người y tá rằng “chừng nào chiếc lá cuối cùng rụng xuống, em sẽ từ giã chị”. Mỗi ngày từng chiếc lá cứ vô tình rụng mãi, cô bé đếm 20, 10,…rồi còn 5, còn 4, 3, 2, nhưng khi chỉ còn một chiếc, chờ mãi, hai ba ngày, mà nó chẳng rụng…và cô tự nhiên phục hồi, lành bịnh. Khi đã hoàn toàn bình phục, cô trở lại bệnh viện thăm những người y tá cũ. Lúc ra về cô được tặng một chiếc hộp có gói giấy hoa rất đẹp, mở ra trong đó là một chiếc lá vàng có một cây kim găm ở cuống. Một người y tá nào đó đã gắn chặt chiếc lá cuối cùng vào cành để mang đến lòng tin, sức phấn đấu, niềm hi vọng cho bệnh nhân bé nhỏ.
Coué tên thật là Émile Coué de La Châtaigneraie, sanh ngày 26 tháng 2 năm 1857, mất ngày 2 tháng 7 năm 1926. Ông là dược sĩ và là nhà tâm lý học. Sau nhiều tháng năm theo dõi, đúc kết kinh nghiệm, ông đã nghĩ ra phương pháp chữa bịnh chủ yếu bằng tinh thần. Sau khi tốt nghiệp dược khoa, ông mở tiệm thuốc và thường có thói quen kèm theo những lời khuyên, khích lệ sau khi phát thuốc cho người bệnh. Ông nhận xét rằng nếu bệnh nhân có lòng tin vào thuốc, vào bác sĩ, dược sĩ thì sẽ mau lành bịnh hơn. Phản ứng đó về sau người ta gọi là effect placebo (hiệu quả placebo mà có người dịch là lộng giả thành chân). Sức mạnh của lòng tin, niềm hi vọng mạnh mẽ có thể thay thế dược liệu. Ông cứ nói “Ông, bà hãy uống thuốc nầy sẽ khỏi ngay, bắt đầu tuần sau ông, bà sẽ thấy khỏe lại…” mà lần hồi ông nổi tiếng, có người cho rằng thuốc của ông là thần dược. Với ông, tinh thần vững mạnh chính là một phương thuốc trị bịnh. Giữ tinh thần theo chiều hướng tích cực sẽ giúp chúng ta vượt thắng nhiều đau buồn, bệnh tật. Năm 2013 kỷ niệm 100 năm Phương Pháp Coué.

Thánh Kinh vẫn thường khuyên chúng ta Chớ có một lời dữ nào ra từ miệng anh em; nhưng khi đáng nói hãy nói một vài lời lành giúp ơn cho và có ích lợi cho kẻ nghe đến.” (Ê-phê-sô 4:29).

Monday, 13 October 2014

HỌC LÃNH ĐẠO THEO CÁCH CỦA CHÚA GIÊ-XU - BÀI 5



Bài tham luận 5:
LÃNH ĐẠO VÀ TRAO PHÓ NHIỆM VỤ
          Tháng 10 năm 1282, tức cách nay hơn 700 năm, vua Trần Nhân Tông tổ chức Hội nghị Bình Than để tìm kế chống giặc Nguyên Mông xâm chiếm Việt Nam. Được tin, Trần Quốc Toản cưỡi ngựa đến tham dự. Nhưng triều đình ngăn cản vì cho rằng chàng chỉ mới 15, còn ít tuổi quá để bàn việc nước. Quốc Toản trong cơn tức giận, tay cầm trái cam bóp nát lúc nào không biết. Rất may, chàng thanh niên không vì thế mà trở thành kẻ tội đồ, bội phản. Chàng đã về nhà tập hợp thân nhân và gia nô thành một đội quân hơn cả ngàn người, mua vũ khí, thuyền bè, lo tập dợt chờ ngày ra trận. Quốc Toản cho may một lá cờ thêu 6 chữ vàng “Phá cường địch, báo hoàng ân” nghĩa là “phá giặc mạnh, báo ơn vua” để làm cờ hiệu riêng cho mình. Lịch sử đã ghi nhận rằng đội quân của chàng trẻ tuổi Trần Quốc Toản đã hợp lực với quân của tướng Trần Nhật Duật đánh phá kẻ thù, góp phần rất lớn vào công cuộc chiến thắng quân Nguyên lần thứ hai. Và chàng trai trẻ đó cũng đã hi sinh trong khói lửa!
          Môi-se là một lãnh tụ lừng danh. Điều nầy ai cũng phải thừa nhận. Ông đã được Đức Chúa Trời chọn lựa và huấn luyện suốt 80 năm để sau đó dẫn dắt dân sự 40 năm trong sa mạc. Ông đã hoàn thành chức năng giải phóng dân I-sơ-ra-ên ra khỏi xiềng xích nô lệ và dẫn dắt họ trên con đường tiến về đất hứa. Nhưng trong quá trình hành xử chức vụ, có khi Môi-se vấp phải những khiếm khuyết thường tình của những nhà lãnh đạo. Một trong những bài học Môi-se nhận lãnh được ghi lại trong sách Xuất Ê-díp-tô Ký 18 :13-26.
          Chuyện kể rằng công tác dẫn dắt hai triệu người lang thang trong đồng vắng nảy sinh ra rất nhiều hệ lụy. Có người muốn biết ý Chúa, có người thưa kiện cần xét đoán, có người thắc mắc về luật pháp hay mạng lịnh v.v…và tất cả đều đến với Môi-se để tìm câu giải đáp cho những vấn đề. Dưới cái nóng chang chang của sa mạc, dân sự sắp hàng từ sớm mai đến chiều tối rất mệt mỏi. Còn Môi-se thì lả người suốt ngày mà cũng không giải quyết hết cho muôn dân. Ngày nầy qua ngày khác, bao công việc dồn lại, tất cả chồng chất trên vai người lãnh tụ. Cho đến một hôm, Giê-trô là ông gia của Môi-se đến thăm, và thấy cách hành xử của người con rể. Gia-trô nói : «Tại sao con làm như vậy ? Đó không phải là cách hay. Con là người lãnh đạo dân sự trước mặt Đức Chúa Trời, là người có thiên chúc truyền rao mạng lịnh và luật pháp của Ngài. Nhưng con phải chọn những người có tài năng, lòng tin kính, chân thật, thanh liêm làm trưởng cai trị từng nhóm mười người, năm mươi, một trăm, một ngàn. Và họ thay con xét xử những người trong nhóm của họ. Rồi nếu có những gì trọng hệ, họ mới trình lên cho con. Như vậy con mới đủ sức làm tròn trọng trách và dân sự cũng bình yên ». Và từ hôm đó Môi-se đã thâu thập một bài học về chia xẻ trách nhiệm của một người lãnh đạo !
          Giao phó trách nhiệm là một nghệ thuật. Người lãnh đạo muốn thực hiện những hoài bão lớn lao luôn luôn phải biết cách chọn người và trao cho họ những công tác để hoàn thành. Người lãnh đạo giỏi không phải làm hết mọi việc, nhưng là dùng hết mọi người cho đại cuộc. Người xưa thường nói « Dụng nhân như dụng mộc », nghĩa là cách dùng người giống như cách dùng gỗ. Một khúc cây có thể dùng làm củi, cũng có thể dùng cất nhà, đóng bàn ghế hay đẻo thành những tác phẩm nghệ thuật.
          Chúa Giê-xu đã phán : « Cha Ta làm việc đến bây giờ, Ta đây cũng làm như vậy » (Giặng 5 :17). Nhưng Ngài không chấm dứt ở đó, Ngài còn phán : «Kẻ nào tin Ta cũng sẽ làm việc Ta làm, lại cũng làm việc lớn hơn nữa » (Giăng 14 :12). Ngài chọn những người tầm thường trong xã hội, dạy dỗ, huấn luyện, trang bị cho họ và rồi giao cho họ làm những việc phi thường cho Ngài. Công tác truyền bá Phúc Âm « cho đến tận cùng trái đất » lại trao cho những ngư phủ, những nông dân, những người thâu thuế…mà lịch sử đã chứng minh rằng việc giao phó nhiệm vụ của Chúa Giê-xu đã thực sự kết quả. Giữa cơn đau đớn trong vườn Ghết-sê-ma-nê, Ngài đã cầu nguyện cho những kẻ đã được Ngài chọn lựa và ủy thác trọng trách « như Cha đã sai Con trong thế gian, thì Con cũng sai họ trong thế gian » « Con đã ban cho họ sự vinh hiển mà Cha đã ban cho Con » (Giăng 17). Ngài không những ủy thác trọng trách cho họ, nhưng còn cho họ chia xẻ vinh quang của chính Ngài. Họ khổ nhọc trong công tác, đổ mồ hôi vì nhiệm vụ, nhưng họ cũng sẽ cùng Ngài ca khúc khải hoàn khi công cuộc cứu rỗi toàn thể nhân loại hoàn tất trong ngày Ngài từ trời hiện xuống.
          Một trong những lý do khiến ta không muốn trao bớt trọng trách, là vì ta không tin tưởng người cùng làm việc với mình. Chúng ta thấy dường như những người xung quanh bận rộn quá, thiếu nhiệt tâm hay không có những năng khiếu như mình, do đó thôi thà mình làm còn hơn trao công việc cho họ. Nhưng kinh nghiệm cho thấy, ta càng tin tưởng họ, thì họ càng cố gắng nhiều hơn. Giữa những khó khăn, thử thách trong chức vụ, họ sẽ vươn mình lên trong sự học hỏi, phấn đấu nhiều hơn trong tinh thần trách nhiệm. Và rồi họ sẽ trưởng thành để trở nên những nhà lãnh đạo tài ba cho Hội Thánh.
          Cựu thủ tướng nước Anh Tony Blair mới đây đã viết trong hồi ký A Journey : My Political Life: « Nghệ thuật lãnh đạo là một năng khiếu riêng của mỗi cá nhân ». Chúng ta không nên đòi hỏi người khác làm theo như khuôn khổ của mình. Hãy để họ tự phát huy sáng kiến. Hãy cho họ cơ hội làm một nhà lãnh đạo theo cách riêng mà Chúa hướng dẫn. Bởi vì mỗi bông hoa có màu sắc riêng, có hương vị riêng, nhưng tất cả đều làm đẹp cho khu vườn của Chúa.
          Thưa Bạn,
          Chúa Giê-xu đã kêu gọi, huấn luyện và giao phó trọng trách cho những sứ đồ, nhưng cuối cùng và quan trọng hơn hết, Ngài truyền cho họ một điều răn. Điều răn là mệnh lệnh bắt buộc phải thi hành. « Ta ban cho các ngươi một điều răn mới, nghĩa là các ngươi phải yêu nhau ; như Ta đã yêu các ngươi thể nào thì các ngươi cũng phải yêu nhau thể ấy. Nếu các ngươi yêu nhau, thì ấy là tại điều đó mà thiên hạ sẽ nhận biết các ngươi là môn đồ Ta » (Giăng 13 :34-35 ; 15 :12). Ngài phán những lời nầy không phải cho đám đông quần chúng hay những kẻ ái mộ Ngài. Đây là mệnh lệnh trước hết dành cho những nhà lãnh đạo Hội Thánh. Bởi vì dù là tài giỏi cách mấy, dù là hi sinh cách mấy, dù là thành công cho lắm, mà người lãnh đạo thiếu tình yêu thương thì tất cả chỉ là luống công. Sứ đồ Giăng nhắc lại « Ai nói mình yêu mến Đức Chúa Trời mà ghét anh em mình là người nói dối » (I Giăng 4 :20). Sứ đồ Phao-lô đã triển khai mệnh lệnh đó qua một đoạn Kinh Thánh với lời văn trác tuyệt trong I Cô-rinh-tô đoạn 13. Kết luận, Phao-lô đã viết : « Nên bây giờ còn có ba điều nầy : đức tin, sự trông cậy, tình yêu thương ; nhưng điều trọng hơn trong ba điều đó là TÌNH YÊU THƯƠNG » (I Cô-rinh-tô 13 :13)
         

          

HỌC LÃNH ĐẠO THEO CÁCH CỦA CHÚA GIÊ-XU - BÀI 4


LÃNH ĐẠO VỚI THẨM QUYỀN

          Trần Thái Tông tức Trần Cảnh là vua thứ nhất của nhà Trần, sinh năm 1218, làm vua 33 năm, nhường ngôi cho con và làm thái thượng hoàng 19 năm, băng hà vào năm 1277, thọ 59 tuổi.
          Vào những năm cuối đời Lý, triều đình bị khống chế bởi Trần Thủ Độ, một nhà mưu lược nhiều thủ đoạn. Trần Thủ Độ đã ép vua Lý gả công chúa Lý Chiêu Hoàng làm vợ cho Trần Cảnh lúc ông chỉ mới lên 7 tuổi. Đến khi Lý Chiêu Hoàng lên ngôi vua, Trần Thủ Độ đã ép phải nhường ngôi cho Trần Cảnh, lúc ông 11 tuổi. Năm 1226, Trần Cảnh lên ngôi, tức Trần Thái Tông, mở nghiệp cho nhà Trần trong lịch sử Việt Nam. Việc khai sáng vương triều nầy có thể gọi là một vết đen trong trang sử Việt, bởi vì trăm họ trong nhân gian dị nghị và tôn thất nhà Lý luôn căm phẫn về việc cướp ngôi.
          Được lên ngôi trong hoàn cảnh nhiễu nhương và thụ động như vậy nhưng Trần Thái Tông đã phấn đấu, học hỏi và biến mình thành một nhà lãnh đạo xuất chúng của lịch sử, cho đến nỗi người đời sau nhận xét nhà vua là một đại tướng uy vũ, một minh quân thần thái, một bó đuốc của thiền học Việt nam, một gương mặt văn hóa đẹp và lạ thường trong dòng lịch sử dân tộc.
          Năm 1258, quân Nguyên từ phương Bắc tràn xuống xâm lấn nước ta, đích thân nhà vua chỉ huy chiến đấu chống giặc. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư ghi lại rằng: “Vua tự làm tướng, đi trước, xông pha tên đạn”. Ngày 29-1-1258, Trần Thái Tông cùng thái tử Hoàng đã phá tan quân Nguyên ở Đông Bộ Đầu, giải phóng Thăng Long, kết thúc cuộc chiến chống quân Nguyên lần thứ nhứt. Thái Tông trở thành ông vua anh hùng cứu nước.
          Nhưng tên tuổi Trần Thái Tông lưu truyền còn là một nhà thiền học, một triết gia với những tư tưởng sâu sắc, độc đáo, và là một nhà thơ trữ tình, trác tuyệt. Ngô Thì Sĩ, một sử gia vào thế kỷ 18 đã nhận xét vua Trần Thái Tông quả là một con người có tính cách đặc biệt. Lên làm vua như một người tầm thường, nhưng trị vì ngôi báu như một người phi thường. Lúc làm tướng thì anh dũng, lúc làm vua thì phú quí không lấy làm trọng, luôn trau giồi học hỏi, không quản ngại vươn lên. Đúng là một gương mặt lạ lùng trong dòng lịch sử dân tộc.  
          Vào thế kỷ 15 trước Công Nguyên tức cách nay 3500 năm, Đức Chúa Trời đã thực hiện một kế hoạch giải cứu tuyển dân I-sơ-ra-ên của Ngài ra khỏi vòng xiếng xích nô lệ tại Ai-cập. Để chuẩn bị cho việc nầy, Ngài đã chọn lựa vị lãnh tụ Môi-se. Và Ngài đã giành ra 80 năm để trang bị cho chức vụ của ông. Trước hết Ngài cho phép ông làm con nuôi của công chúa Pha-ra-ôn. Trong 40 năm ở trong cung vua, Môi-se đã thu nhập chữ viết và một nền văn minh của nhân loại để làm hành trang cho công việc viết sách Ngũ Kinh. Và sau đó Ngài đưa ông vào sống trong xứ Ma-đi-an hoang dã 40 năm, học nơi đó nếp sống và sự sinh tồn nơi sa mạc, chuẩn bị cho việc dẫn dắt dân sự 40 năm lang thang trong đồng vắng. Ngày nay nói đến dân I-sơ-ra-ên, ai cũng thầm cảm phục tầm vóc và thẩm quyền lãnh đạo của Môi-se. Thánh Kinh ghi lại rằng: “Về sau, trong I-sơ-ra-ên không còn dấy lên tiên tri giống như Môi-se, mà Đức Giê-hô-va biết giáp mặt. Không có ai bằng người, hoặc về các dấu kỳ, phép lạ mà Đức Giê-hô-va sai người làm tại trong xứ Ê-díp-tô, trước mặt Pha-ra-ôn, các quần thần, và cả xứ của người; hoặc hết thảy công việc lớn lao và đáng sợ mà Môi-se cậy tay quyền năng mình làm tại trước mặt cả I-sơ-ra-ên”(Phục Truyền 34:10-12).
          Thánh Kinh cho biết rằng Chúa Giê-xu đã chuẩn bị suốt 30 năm cho chức vụ 3 năm rưỡi của Ngài. Mặc dầu không kể ra chi tiết, nhưng có một câu Kinh Thánh rất xúc tích ghi lại 30 năm đầu đới của Chúa: “Đức Chúa Giê-xu khôn ngoan càng th êm, thân hình càng lớn, càng được đẹp l òng Đức Chúa Trời và người ta” (Lu-ca 2:52). Và khi khởi sự giảng dạy, Ngài không chỉ dạy bằng lời, nhưng với thẩm quyền tuyệt đối. Ma-thi-ơ 7:28-29 chép: “Khi Đức Chúa Giê-xu vừa phán những lời ấy xong, đoàn dân lấy đạo Ngài làm lạ; vì Ngài dạy như có quyền, chớ không giống như các thầy thông giáo”. Thẩm quyền là một yếu tố căn bản của chức vụ Chúa Giê-xu trên đất. Trong tầm vóc xã hội, Ngài chỉ xuất thân là một người thợ mộc từ thành Na-xa-rét vô danh, nhưng đối diện với Ngài người ta cảm nhận một sức mạnh siêu nhiên, một kiến thức cao đẹp và uy vũ của một nhà lãnh đạo. Ni-cô-đem, một nhà cai trị dân I-sơ-ra-ên đã thổ lộ: “Thưa thầy, chúng tôi biết thầy là giáo sư từ Đức Chúa trời đến, vì những phép lạ thầy đã làm  đó, nếu Đức Chúa Trời chẳng ở cùng, thì không ai làm được” (Giăng 3:2). Và niềm cảm phục đó theo ông qua nhiều năm tháng. Khi người ta định bắt Chúa Giê-xu, Ni-cô-đem đã đứng ra binh vực (Giăng 7:50-52) và khi Ngài chết trên thập tự giá, hết thảy môn đồ đều bỏ trốn, thì ông đã tẩm liệm rồi lo chôn cất Ngài (Giăng 19:38-42).
          Thẩm quyền là yếu tố cần thiết để làm một người lãnh đạo. Hay nói cách khác, không có thẩm quyền, không có lãnh đạo. Thẩm quyền là sự kết hợp bởi hai yếu tố cần thiết: thứ nhứt, ta có thẩm quyền lãnh đạo bởi vì ta có chức vụ, có địa vị hay được thụ phong; thứ hai, ta có thẩm quyền lãnh đạo là do chính con người, cá tánh, và kiến thức mà ta có. Trên thực tế cho ta thấy điều thứ hai nầy còn quan trọng hơn điều thứ nhứt. Khi bạn được đắc cử vào một chức vụ, được bổ nhiệm hay thụ phong, là bạn được giao cho một thẩm quyền lãnh đạo. Nhưng đó chỉ là bước khởi đầu. Thẩm quyền đó có trở nên thực dụng không, có làm cho người ta cảm phục sự lãnh đạo của bạn không, là do chính con người của bạn, do tài lãnh đạo của bạn, do cách cư xử của bạn, do tầm hiểu biết của bạn, do khả năng và kiến thức mà bạn thu thập. Thiếu những yếu tố đó, dù bạn có chức quyền thì cũng chỉ đủ làm cho người ta trọng, nhưng sẽ không làm cho người ta phục. Nói một cách khác, chức vụ cho bạn cái vị thế của người lãnh đạo, nhưng chính những gì bạn học tập, trau giồi, trang bị cộng với sự thông minh sẵn có, mới cho bạn cái tầm vóc của người lãnh đạo.
          Có  người quan niệm rằng những môn đồ của Chúa chỉ xuất thân tầm thường như đánh cá, thu thuế...nhưng họ cũng làm việc lớn cho Ngài, thi chúng ta đâu cần phải học hỏi nhiều, đâu cần phải trau giồi kiến thức trong việc lãnh đạo hay phục vụ. Phải, những môn đồ Chúa khởi sự là những người tầm thường, nhưng suốt ba năm rưỡi họ đã được theo học với một vị Thầy phi thường. Chính Con Trời đã dạy dỗ, huấn luyện và tập tành họ suốt thời gian chức vụ của Ngài. Ngày nay, có đại học nào, bằng cấp nào, học vị nào có thể so sánh với những kiến thức mà họ đã thâu thập từ Vua của muôn vua, Chúa của muôn chúa? Ngài luôn nhắn nhủ họ: “Hãy học theo Ta”. Học hỏi chính là bồi đắp, nâng cao thẩm quyền của người lãnh đạo.
          Khi chúng ta nhận lãnh một chức vụ, được bầu vào một công việc, là lúc bắt đầu một tiến trình học tập. Những tổ chức quân đội trên thế giới, khi một người chỉ huy được thăng cấp, thì phải tham dự những khóa huấn luyện về tham mưu, về chiến lược, về thuật chỉ huy v.v...bởi đó thuộc cấp mới tuân lời, vâng lệnh. Người ta nói sự học như một con thuyền trên dòng nước, không tiến ắt sẽ lùi. Kinh Thánh, sách vở, báo chí, internet, những khóa huấn luyện, những lớp học ngắn hạn là cơ hội để chúng ta trau giồi cho chức vụ mà mình đã nhận lãnh. Một khi chúng ta lấy làm hài lòng về những sự hiểu biết của mình, một khi chúng ta cho là mình đã học đủ, là lúc chúng ta đang đi thụt lùi, đang làm giảm thẩm quyền của một người lãnh đạo. Sứ đồ Phao-lô lúc gần qua đời, nhưng vẫn không quên học hỏi. Ông bảo Ti-mô-thê khi đến thăm ông hãy nhớ đem theo những sách vở, nhứt là những sách bằng giấy da (II Ti 4:6,13). Ông cũng khuyên Ti-mô-thê “Hãy chăm chỉ đọc sách” (I Ti 4:13). Một nhà hiền triết Trung Hoa đã nói: “Một ngày không đọc sách, nói chuyện nghe nhạt nhẽo”.
          Chúa Giê-xu dạy thí dụ về những ta-lâng trong Ma-thi-ơ đoạn 25. Ngài muốn chúng ta phát triển, làm lợi, không phải chỉ dấu nó. Đầu tư vào việc phát triển khả năng lãnh đạo trong địa hạt mình đang nắm giữ chính là một trong những cách làm tăng lên ta-lâng mà mình đã nhận lãnh. Chúa Giê-xu dạy rằng: “Ta sai các người đi khác nào như chiên giữa bầy muôn sói. Vậy hãy khôn khéo như rắn, đơn sơ như chim bồ câu” (Mat 10:16). Người lãnh đạo trong Hội Thánh đơn sơ, không màu mè, không kiêu ngạo nhưng họ là những người khôn ngoan. Sự khôn ngoan của họ đến từ lòng kính sợ Chúa và được hướng dẫn bởi Lời Ngài. Họ học hỏi mỗi ngày, luôn trau giồi tầm hiểu biết. Họ chuyên cần trong phục vụ mà cũng dốc lòng làm lợi thêm những khả năng, ân tứ mà họ đã nhận lãnh. Họ bắt chước Chúa trong công tác phụng sự giữa những người bình dân, nghèo khốn với tấm lòng mềm mại, khoan dung. Nhưng họ cũng có thể sẵn sàng đối diện với những nhà trí thức khoa bảng, những người có địa vị, những cấp cai trị...mà không chút rụt rè hay mặc cảm thua sút, vì họ biết mình là những đại sứ khôn ngoan của Đấng Chủ Tể muôn loài.
          Chức sắc trong Hội Thánh là những người mang tâm tình của người đầy tớ phục vụ nhưng trong họ tiềm ẩn một thẩm quyền của những người chăn dắt được chọn lựa và được dạy dỗ theo cung cách lãnh đạo của Chúa Giê-xu! Ngài là Đấng biến những người đánh cá tầm thường, những nông dân thô sơ thành những nhà khai sáng và chăn dắt Hội Thánh, Ngài cũng có thể làm điều đó cho những ai có tấm lòng sẵn sàng học theo Ngài.
         

          

HỌC LÃNH ĐẠO THEO CÁCH CỦA CHÚA GIÊ-XU - BÀI 3


Bài tham luận 3:
LÃNH ĐẠO VỚI TINH THẦN ĐỒNG ĐỘI

          Vào năm 1284, quân Nguyên xâm chiếm nước Việt lần thứ hai. Thế giặc mạnh như chẻ tre, triều đình phải bôn tẩu khỏi kinh đô Thăng Long, đi lánh nạn. Đang lúc sơn hà nguy biến đó, thượng hoàng Trần Thái Tông đã triệu tập hội nghị Diên Hồng. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư ghi lại như sau: “Thượng hoàng triệu phụ lão trong nước họp ở thềm điện Diên Hồng, ban yến và hỏi kế đánh giặc. Các phụ lão đều nói “Đánh!”. Muôn người cùng hô một tiếng, như tất cả bật ra từ một cửa miệng”. Và những bậc kỳ tài như Trần Hưng Đạo, Trần Quang Khải, Trương Hán Siêu, Yết Kiêu, Phạm Ngũ Lão, Trần Quốc Toản... đã hiệp nhất với hàng hàng lớp lớp quân dân đánh đuổi giặc ngoại xâm, giành lại giang sơn, bờ cõi. Bởi thế mà người Việt vẫn thường nói: “Một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao”. Dân tộc ta luôn đề cao tinh thần đoàn kết, tinh hoa của sự làm việc đồng đội.
          Lịch sử Trung Hoa cũng ghi lại cuộc chiến lẫy lừng tại Xích Bích vào năm 208 sau Công nguyên, giữa liên minh Thục Hán – Đông Ngô chống lại Tào Tháo. Mặc dù quân số của Lưu Bị và Tôn Quyền chỉ vỏn vẹn 50,000 người, chống lại với 220,000 quân Tào, nhưng số người nhỏ nhoi đó đã oanh liệt chiến thắng đoàn quân đông đảo của Tào Tháo. Đành rằng kế sách đã hình thành dưới trướng của Chu Công Cẩn và Khổng Minh Gia Cát, nhưng sự đóng góp của bao anh hùng hào kiệt đương thời, liên hoàn kế mới thành tựu. Đọc lại những trang sử oai hùng đó, chúng ta quả phải khâm phục tinh thần đồng đội của người xưa.
          Thánh Kinh Cựu ước ghi lại hai câu chuyện đáng cho chúng ta học hỏi về sự làm việc đồng đội. Câu chuyện thứ nhất ghi trong sách Xuất Ê-díp-tô Ký 18:8-13. Trên hành trình xuyên sa mạc, dân A-ma-léc đã xông đến khiêu chiến với dân sự Chúa. Mồi -se sai Giô-suê dẫn tráng sĩ xông trận. Nhưng cuộc chiến dường như bất phân thắng bại. Ở trên núi, Mộ-se giơ tay lên trời cầu nguyện, hễ cánh tay giơ lên, dân I-sơ-ra-ên trổi thắng, nhưng khi mỏi mệt, tay Môi-se xụi xuống, binh lính cũng bị đánh lui. A-rôn và Hu-rơ giải quyết sự mệt mỏi của Môi-se bằng cách đứng hai bên đỡ hai tay của ông lên cho đến khi mặt trời lặn và dân I-sơ-ra-ên toàn thắng. Một câu chuyện rất lý thú của tinh thần đồng đội. Ngược lại, câu chuyện thứ hai ghi lại trong sách Giô-na. Ông là một tiên tri được kêu gọi cho một sứ mệnh cao đẹp. Nhưng suốt trong sách chúng ta chi thấy một con người chạy trốn, yếm thế, luôn cằn nhằn và giận lẫy. Hoàn cảnh lẻ loi mà chúng ta gọi là “đơn thân độc mã” đó dạy chúng ta ngày nay rằng làm việc, lãnh đạo, phấn đấu một mình trong chức vụ là điều nên tránh. Phải  làm việc chung trong tinh thần đồng đội!
          Bàng bạc trong Kinh Thánh chúng ta luôn thấy Ba Ngôi Đức Chúa Trời làm việc chung với nhau. Chúa Giê-xu khi bắt đầu chức vụ, việc đầu tiên của Ngài không phải là giảng Đạo hay làm phép lạ, mà là tìm kiếm và kêu gọi 12 môn đồ. Những gì ghi lại trong bốn sách Phúc Âm cho chúng ta thấy Ngài giành thời gian cho họ nhiều hơn cho đám đông quần chúng. Ngài luôn tìm dịp hướng dẫn, dạy dỗ, huấn luyện họ. Công tác cứu rỗi Ngài hoàn thành trên thập tự giá, nhưng sứ mệnh rao truyền Phúc Âm cho toàn thế giới đòi hỏi thời gian, qua nhiều thời đại, với sự góp phần của nhiều người, mà khởi đầu là 12 môn đồ đã được chọn. Ngài đã từng phán với họ: “Các ngươi biết Ta đi đâu, và biết đường đi nữa.” (Giăng 14:4). Người lãnh đạo mang trong mình một hoài bão, một giấc mơ, một khải tượng, nhưng không có nghĩa tự mình hoàn thành khải tượng, mà là nối kết những người có cùng chí hướng vào đại cuộc, chia xẻ với họ lý tưởng mình đang đi, cùng với họ nhắm đến mục đích, cùng chịu gian nan, thử thách và cùng họ ca khúc khải hoàn trong niềm vui thành đạt.
          Những thái độ kẻ cả, duy ngã độc tôn, hiềm khích, ganh tị, nhỏ mọn luôn luôn là những nguyên do khiến chúng ta thất bại khi làm việc chung với nhau. Học nơi Chúa tâm tình khiêm cung, hạ mình cúi xuống rửa chơn môn đồ, kiên nhẫn trò chuyện với kẻ từng chối bỏ mình, khích lệ người không tin sự phục sinh, chia xẻ với những môn đồ ngã lòng trên đường về Em-ma-ut...chính là thái độ cần có của người lãnh đạo trong tinh thần đồng đội. Vẻ đẹp của bông hoa sẽ rõ nét hơn, hương vị của thành công sẽ ngọt ngào hơn nếu có người bên cạnh cùng chia xẻ với chúng ta. Chúa Giê-xu kêu gọi: “Hãy gánh lấy ách của Ta, và học theo Ta, thì linh hồn các ngươi sẽ được yên nghỉ, vì ách Ta dễ chịu và gánh Ta nhẹ nhàng” (Ma-thi-ơ 11:29-30). Đâu có cái ách nào dễ chịu? Và gánh nặng sao gọi là nhẹ nhàng? Ách chỉ dễ chịu vì có Chúa cùng mang với chúng ta. Gánh nặng trở nên nhẹ nhàng vì Ngài  sẽ cùng chung vai gánh vác với chúng ta. Đó há không phải là một tinh thần đồng đội tuyệt vời sao?
          Vua Sa-lô-môn khôn ngoan đã khuyên những nhà lãnh đạo nên có xung quanh mình những mưu sĩ, những cố vấn, những người cùng chung làm việc. Ông  nói: “Dân sự sa ngã vì không có sự hướng dẫn, nhưng nếu có nhiều mưu sĩ sẽ có sự bình an” (Châm ngôn 11:14) và “Nhờ có nhiều mưu sĩ, mưu định được thành” (Châm ngôn 15:22). Dĩ nhiên là chúng ta phải khôn ngoan trong sự chọn người và phải chọn những ai có cùng chí hướng, cùng tâm tình. Nhưng không có nghĩa là chọn những người chỉ biết gật đầu, lúc nào cũng tâng bốc mình. Ta cần những cố vấn dám nói lên những ý nghĩ thật, có khi là những ý tưởng ngược lại với mình. Có như vậy ta mới không rơi vào cạm bẫy của sự phiến diện hay chủ quan. Tổng thống Hoa Kỳ Benjamin Franklin đã nói: “Những người không dám nói ra ý nghĩ thật với ta, là những người không thể cố vấn cho ta”. Con người vốn ưa thích những lời êm tai, những lời khen nịnh hót. Nhưng hãy nhớ: những người khen ta là bạn ta, những người chê ta là thầy ta, còn những người nịnh bợ ta là kẻ thù của ta vậy!
          Người lãnh đạo giỏi không phải là người làm hết mọi việc nhưng là người biết xử dụng hết mọi người. Nguyễn Trãi trong Bình Ngô Đại Cáo đã viết: “Dân tộc ta có lúc thịnh lúc suy, nhưng anh hùng hào kiệt thời nào cũng có”. Những anh tài hiện diện mọi lúc, mọi nơi. Người lãnh đạo phải biết khám phá khả năng của họ, khích lệ, dẫn dắt và kết nạp họ vào đại cuộc. Chúa vẫn thường chuẩn bị cho lãnh tụ Môi-se có tật nói ngọng một A-rôn hùng biện để đối diện với Pha-ra-ôn trong sứ mạng giải cứu dân tộc thoát ách nô lệ. Bạn muốn khải tượng mình thành đạt, Bạn muốn làm việc lớn cho Chúa, thì Bạn hãy học theo Ngài trong tinh thần làm việc đồng đội!

         
         
         

          

HỌC LÃNH ĐẠO THEO CÁCH CỦA CHÚA GIÊ-XU - BÀI 2



Bài tham luận 2:

LÃNH ĐẠO VỚI KHẢI TƯỢNG

         Vào ngày 28 tháng 8 năm 1963, tại quảng trường Lincoln Memorial, thủ đô Hoa Thịnh Đốn, Mục sư Martin Luther King đã đọc một bài diễn văn lừng danh trước khi bị ám sát. Ông  mở đầu bài nói chuyện bằng một câu trở thành nổi tiếng: “Tôi có một giấc mơ!”. Giấc mơ của ông là sẽ có một ngày, những người da đen tại Mỹ sẽ thóat ách nô lệ, trở thành những công dân bình đẳng như mọi sắc dân đang sinh sống trên đất nước Hoa Kỳ. Giấc mơ đó đã hình thành từ thời Tổng Thống Abraham Lincoln, một khải tượng giải phóng cao đẹp nối dài qua nhiều năm tháng mà chúng ta ngày nay đuợc may mắn chứng kiến thành quả. Một khải tượng thành hiện thực!
          Ngược giòng lịch sử, vào năm 1789, khi anh hùng áo vải Tây Sơn Nguyễn Huệ dẫn đại binh từ Bình Định đến Thăng Long để đánh đuổi giặc nhà Thanh ra khỏi bờ cõi, giành lại giang sơn, người còn mang trong mình một giấc mộng lớn hơn, đó là đòi lại hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây vốn thuộc về tài sản của dòng dõi Bách Việt. Và dù định mệnh không cho người hòan thành đại cuộc nhưng cũng đã nói lên chí hướng của một đấng anh hùng hào kiệt.
          Những nhà lãnh đạo lừng danh trong dòng lịch sử nhân lọai đều mang trong mình một hòai bão, một sứ mạng, một khải tượng. Họ miệt mài dấn thân, dốc lòng làm việc cho chí hướng. Có khi họ phải liều mình, chịu bao gian nguy, hi sinh mạng sống cho nỗi ước mơ mà họ hằng ấp ủ. Có thể họ không nhìn thấy kết quả trong đời mình, nhưng họ biết chắc hành trình mình đang đi, công việc mình đang làm rồi sẽ có một ngày đơm bông, kết trái.
          Chúa Giê-xu là một vị lãnh đạo cao cả nhất của nhân lọai. Ngài đến trần gian với một khải tượng. Ngài  sống từng giờ, từng phút vì khải tượng. Mỗi lời nói, mỗi hành động, mỗi bước đi của Ngài đều chỉ để hòan thành khải tượng. Khải tượng của Ngài đã đuợc dự báo bởi tiên tri Ê-sai và đuợc ghi lại trong Phúc Âm Lu-ca 4:18-19:
          “Thần của Chúa ngự trên Ta, vì Ngài đã xức dầu cho Ta đặng truyền           Tin Lành cho kẻ nghèo. Ngài đã sai Ta để rao cho kẻ cầm đuợc tha,    kẻ mù đuợc sáng, kẻ bị hà hiếp đuợc tự do, và để đồn ra năm lành           của Chúa”.
          Suốt những năm tháng trên trần thế, Chúa Giê-xu dốc lòng làm việc cho sứ mệnh mà Ngài nhận lãnh. Ngài giảng Đạo, làm phép lạ, dạy dỗ môn đồ, chịu bao gian nan và ngay cả hi sinh mạng sống trên thập tự giá cũng chỉ vì muốn khải tượng được thành tựu.
          Châm Ngôn 29:18 ghi rằng: “Đâu thiếu sự mặc thị, dân sự bèn phóng tứ“. Câu Kinh Thánh nầy trong nguyên văn hàm ý rằng một khi cấp lãnh đạo không còn quan tâm đến khải tượng nữa, thì dân sự bèn mất đi phương hướng.
          Có phải bạn mang trong mình một khải tượng khi bước vào vai trò lãnh đạo trong Hội Thánh? Dù chỉ là Trưởng Ban Phụ Nữ, hay là Thủ Quỹ, Thư Ký, Chấp Sự, Trưởng Ban Thăm Viếng…thì bạn cũng có một hòai bão nào đó trong những năm tháng chức vụ. Bạn tin rằng Chúa đặt bạn vào vai trò nầy thì bạn chắc cũng tin rằng Ngài có một mục đích cho bạn hướng đến để hòan thành. Và rồi sau những năm tháng miệt mài làm việc, khi nhiệm kỳ chấm dứt, bạn nhìn lại quãng đuờng  đi qua với lòng vui mừng hài lòng rằng mình đã một phần nào làm xong nhiệm vụ đuợc giao phó.
          Chúa Giê-xu trước khi về trời trong lời cầu nguyện có thưa với Cha rằng: “Con đã tôn vinh Cha trên đất, làm xong công việc Cha giao con làm” (Giăng 17:4). Qua lời cầu nguyện đó, chúng ta có cảm tưởng rằng trước khi Chúa Giê-xu xuống thế gian, Ba Ngôi Đức Chúa Trời đã có một cuộc họp để thảo luận về chương trình cứu rỗi lòai người, và giao cho Chúa Giê-xu sứ mệnh thực hiện công cuộc vĩ đại đó. Và Ngài đã làm thành! Trên thập tự giá, Ngài phán: “Mọi việc đã đuợc trọn” (Giăng 19:30).
          Khi chúng ta nhận lãnh khải tượng, chúng ta cũng sẽ có khôn ngoan để họach định những kế họach thực hiện khải tượng. Mỗi lần đạt đuợc một mục đích trong kế họach là mỗi lần chúng ta đến gần với khải tượng hơn. Trở lại với hình ảnh lãnh đạo của Chúa Giê-xu, chúng ta sẽ đọc thấy những kế họach của Ngài:
          Mác 1:38: “Ngài phán: chúng ta hãy đi nơi khác, trong những làng           xung quanh đây, để ta cũng giảng đạo nơi đó nữa, vì ấy là cốt tại việc           đó mà ta đã đến”.
          Lu-ca 18:31-33: “Chúa Giê-xu đem mười hai môn đồ riêng ra mà           phán rằng: Nầy, chúng ta lên thành Giêrusalem, mọi điều mà các           đấng tiên tri đã chép về Con Người sẽ ứng nghiệm. Vì Ngài sẽ bị nộp           cho dân ngọai; họ sẽ nhạo báng Ngài, mắng nhiếc Ngài, nhổ trên           Ngài, sau khi đánh đòn rồi, thì giết Ngài đi; đến ngày thứ ba, Ngài sẽ           sống lại”.
          Bước kế tiếp không kém phần quan trọng, là giải thích, truyền đạt khải tượng, mục tiêu và kế họach cho những người cùng làm việc với mình, những người sẽ chung vai sát cánh với mình trong chức vụ. Nếu để ý, bạn sẽ thấy Chúa Giêxu dành thời gian của Ngài cho mười hai môn đồ nhiều hơn là cho đám đông dân chúng. Ngài dùng nhiều cơ hội để truyền đạt lý tưởng, chia xẻ khải tượng và dạy dỗ họ theo hướng đi, theo kế họach của Ngài. Lãnh đạo là khả năng truyền đạt khải tượng và khai sáng cho những người xung quanh những kế họach để lý tưởng đuợc thành tựu.
          Bạn có hòai bão, có ước mơ, có lý tưởng, có khải tượng. Nhưng tất cả sẽ thành vô nghĩa nếu bạn không làm việc, không thực hiện những gì mình mơ ước bằng hành động. Đầu tư thời giờ, công khó, miệt mài dấn thân, thì kết quả mới hình thành. Chúa Giê-xu đã từng cầu nguyện thâu đem, nhưng Ngài không chỉ cầu nguyện mà luôn luôn làm việc. Ngài phán: “Cha ta làm việc cho đến bây giờ, ta đây cũng làm việc như vậy” (Giăng 5:17). Thánh Kinh ghi lại nhiều lần rằng Ngài đi thành nầy thành khác giảng Đạo Tin Lành. Trên đuờng đi có lắm khi Ngài bị đói khát, bị hành hung, giông bão, bắt bớ, nhưng nếu không làm như vậy thì làm sao Ngài có thể nói với Cha rằng: “Con đã làm xong công việc Cha giao con làm”? Có chiến thắng vinh quang nào mà không phải trả giá bằng sự nhọc nhằn, gian khổ? Có thành công nào mà không phải đổ nước mắt, mồ hôi?
          Bạn hãy dành thì giờ yên tĩnh, tự hỏi Chúa đặt mình vào vai trò lãnh đạo, vào chức vụ nầy với sứ mạng gì? Ngài muốn những năm tháng trong nhiệm kỳ của bạn sẽ hòan thành mục tiêu nào? Khi khải tượng hình thành trong tâm khảm, bạn hãy nhờ Chúa soi dẫn và vận dụng sự khôn ngoan mà thiết lập kế họach để khải tượng đó trở thành hiện thực. Và sau đó bạn phải dốc lòng, dốc sức vào việc thực hiện kế họach mà mình đã sọan thảo. Với niềm tin mãnh liệt vào thiên chức đuợc trao phó, với lòng khiêm cung học hỏi, với nhiệt thành của một người mang sứ mệnh, chắc chắn bạn sẽ là người lãnh đạo thành công!
         








HỌC LÃNH ĐẠO THEO CÁCH CỦA CHÚA GIÊ-XU - BÀI 1

Bài tham luận 1:

LÃNH ĐẠO THEO NIỀM TIN CƠ-ĐỐC


          Lãnh đạo là những người chịu trách nhiệm dẫn đuờng người khác. Lãnh đạo là một thiên chức được trao phó cho những người có khả năng, uy lực và biết cách dẫn dắt người khác đi trên con đường đưa họ đi đến nơi mà họ hằng ao uớc.
          Trải qua dòng lịch sử nhân lọai, đã xuất hiện rất nhiều nhà lãnh đạo tài năng xuất chúng. Họ là những tướng lãnh như Nguyễn Huệ, Nã-phá-luân, những nhà mưu luợc như Khổng Minh, Nguyễn Trãi, những chính khách như Lincoln hay Churchchill, những nhà xã hội như mẹ Terrsa, những triết gia như Khổng Tử, Lão Tử hay giáo chủ như Phật Thích Ca hay Mahomed. Họ đã từng xoay chuyển lịch sử, thay đổi quan niệm sống và dựng nên những trang anh hùng ca cho nhân lọai.
          Nhưng vuợt lên trên tất cả, có một Nhà Lãnh Đạo đuợc tôn xung là Vua của muôn vua, Chúa của muôn chúa. Nguời đời có thể chỉ xem Ngài là một thiên tài xuất chúng, một vĩ nhân, nhưng thực ra Ngài chính là Con Trời, một Đấng Thần Nhân. Ngài chính là Chúa Giê-xu. Ngài chỉ xuất hiện hơn ba năm để thi hành sứ mạng, nhưng ảnh huởng của Ngài lan rộng suốt mọi thời đại. Ngài không hề viết ra một trang sách, nhưng hằng ngày qua hơn hai mươi thế kỷ đã có hàng vạn sách viết về Ngài. Suốt đời Ngài không hề rời khỏi xứ Palestine nhỏ bé, nhưng ảnh hưởng của Ngài lan rộng tòan cầu. Ngài không xây dựng cho mình một quân đội, nhưng trải qua những biến chuyển của thời gian đã có hàng triệu triệu người sẵn lòng hi sinh mạng sống cho niềm tin nơi Ngài. Vì thế, học lãnh đạo theo niềm tin Cơ-đốc là học theo mẫu mực ngàn đời của Cứu Chúa Giê-xu!
          Phúc âm Giăng 10:11 đã ghi lại một lời tuyên bố của Chúa bao gồm tòan thể vai trò lãnh đạo của Ngài: “Ta là người chăn hiền lành. Người chăn hiền lành vì chiên mình phó sự sống mình”. Câu Thánh Kinh nầy tóm gọn một hình ảnh hòan hảo vai trò lãnh đạo theo quan điểm Cơ-đốc: một người chăn chăm sóc bầy chiên mình! Chúng ta có chức phận cao trong giáo hội ư? Chúng ta có học vị tiến sĩ thần học ư? Chúng ta có tài năng xuất chúng ư? Tất cả chỉ dùng cho một mục đích: chăm sóc bầy chiên của Ngài! Nếu quên nhiệm vụ đó, là mình đã đi lạc hướng trong thiên chức lãnh đạo được trao phó. Truớc khi về trời Chúa Giê-xu đã giao cho Phi-e-rơ, vị lãnh đạo Hội Thánh, một nhiệm vụ duy nhất: “Hãy chăn những chiên con của Ta” (Giăng 21:17). Như thế, nếu ta không nhiệt thành ham thích chăm sóc, lo lắng cho bầy chiên mà Chúa giao, tốt hơn là ta nên xét lại vai trò lãnh đạo mà mình đang nhận lãnh!
          Con chiên hay còn gọi là con trừu là một trong những lòai vật khờ khạo nhất so với những lòai vật khác. Khi một con chiên đi lạc, dù không xa lắm, nó liền bị mất phương hướng, bất an, sợ hãi và không có khả năng tìm lại với bầy. Dĩ nhiên là nếu gặp gian nguy nó không cách nào tự đối phó. Một con chiên đi lạc là một con chiên trong cơn tuyệt vọng. Nguời ta đã từng thấy cả một bầy chiên bị dòng nuớc cuốn trôi trong cơn lũ, dù có một gò đất cao không xa chúng là bao. Vì vậy, khi Chúa Giê-xu ví chúng ta là chiên, Ngài muốn dạy rằng nếu không có người chăn, chúng ta chỉ là những kẻ không thể tự cứu lấy mình.
          Người chăn đóng nhiều vai trò đối với bầy chiên mình: hướng dẫn, nuôi ăn, chăm nom, an ủi, dạy dỗ và bảo vệ.
          Người lãnh đạo là người hướng dẫn. Người lãnh đạo trong Hội Thánh có thiên chức dẫn dắt người khác đi theo mẫu mực của Chúa Giê-xu. Dù vai trò lớn hay nhỏ, thì nhiệm vụ của người lãnh đạo cũng là đi theo bước chân của Chúa và kêu gọi người khác cùng bước đi với mình. Thánh Phao-lô dạy rằng: “Hãy bắt chước tôi, cũng như tôi đã bắt chước Đấng Christ” (I Cô 11:1). Không phải ngẫu nhiên mà bạn trở thành người lãnh đạo, không phải ngẫu nhiên mà bạn được đứng trên bục để hướng dẫn, làm chứng hay tuyên xưng đức tin mình, không phải ngẫu nhiên mà bạn được quyền hô hào người khác làm việc. Đó chính là bởi hồng ân Thiên Chúa, là do lòng tín nhiệm của Hội Thánh, là bởi sự ưu ái của cấp lãnh đạo dành cho bạn! Hãy hòan thành sứ mạng bằng sự nhiệt thành sôi sục tận đáy tim mình.
          Mỗi bài làm chứng, mỗi bài nói chuyện của chúng ta, mỗi lời nói trong khi hướng dẫn là những thức ăn nuôi duỡng bầy chiên. Chắc hẳn chúng ta không muốn nuôi chiên bằng những thức ăn hư, không có dinh duỡng, khô héo. Những thứ đó sẽ làm cho chiên bị bịnh, bị cằn cỗi, không lớn lên được. Chúng ta không thể nói tùy hứng, không thể nói trống không, nhưng từng lời nói đều đã được chuẩn bị, từng câu chuyện phải được nghiên cứu kỹ luỡng. Nếu xem nhẹ những gì mình nói, thì chẳng bao lâu chính bầy chiên cũng sẽ xem nhẹ chúng ta!
          Một đặc điểm nổi bật nữa của người chăn là lòng ưu ái, cảm thông và an ủi. Những vết thương được rịt lành bằng lòng thương xót. Những sai lầm của chiên được sửa dạy bằng tấm lòng của một người mẹ hiền. Tiên tri Êxêchiên diễn tả:”Ta sẽ tìm con nào đã mất, dắt về con nào đã bị đuổi, rịt thuốc cho con nào bị gãy, và làm cho con nào đau được mạnh” (Ê-xê-chi-ên 34:16). Nguời chăn không ăn thua đủ với chiên, không tranh hơn với chiên, không giận hờn trách móc, không ganh tị, không nhỏ mọn, nhưng lúc nào cũng sẵn sàng binh vực, bảo vệ và lo lắng cho từng con trong bầy. Khi bước vào địa vị lãnh đạo, là lúc Chúa giao cho bạn cậy trượng và cây gậy. Cây trượng dùng để hướng dẫn, cây gậy dùng cho việc cứu vớt, Hãy dùng “cây trượng và cây gậy của Chúa” để an ủi bầy chiên mình như lời Thi thiên 23: 4.
          Lãnh đạo trong niềm tin Cơ-đốc là một địa vị của sự khiêm cung, của lòng tận tụy phục vụ. Lãnh đạo trong niềm tin Cơ-đốc không phải là kẻ cầm đầu mà là một thiên chức. Gọi là cấp lãnh đạo nhưng thực ra họ là những đầy tớ phục vụ. Gọi là những chức sắc Hội Thánh mà tâm tình của họ là những nô lệ luôn luôn lấy làm hãnh diện được rửa chân cho anh em mình. Bởi vì Đấng Lãnh Đạo của họ là chúa tể càn khôn vũ trụ, Đấng nắm trong tay sinh mệnh của tòan thể nhân sinh, nhưng đã bằng lòng cúi xuống làm một người đầy tớ rửa chân cho môn đồ Ngài. Thế thì họ là ai mà tỏ lòng kiêu hãnh khi nhận lãnh chức vụ mà Ngài giao phó?

          Làm một người lãnh đạo không phải là dễ, nhưng lãnh đạo với tâm tình như Đấng Christ đã có thì dù sẽ gặp bao gian nan, chống đối, thành công hay thử thách vẫn vui vẻ dấn thân. Bởi vì bạn đâu có tranh giành, đòi hỏi vai trò đó. Bạn cũng không tìm một địa vị hay lợi ích riêng tư. Bạn bước vào vai trò lãnh đạo chỉ vì vâng phục ý Ngài, vì thiên chức của một người đầy tớ mong ước được đem thì giờ, khả năng, ân tứ phục vụ dưới bàn chân của Đấng mà bạn suốt đời mãi mãi kính tôn!

Monday, 6 October 2014

CUỘC GIẢI PHẨU LIÊN HOÀN

Tháng 5 năm 2014, ngành y khoa của Úc đã làm một thành quả đột phá: Cuộc giải phẩu thận nhiều nhất trong lịch sử với 6 người cho, 6 người nhận, tại 4 bệnh viện, trong vòng 12 giờ đồng hồ. Một người tên Jack hiến thận cho Jill. Chồng của Jill hiến cho Mary. Anh của Mary hiến cho Megan. Con gái của Megan hiến cho Ben. Vợ của Ben hiến cho Garth. Vợ của Garth hiến cho một người lạ trong danh sách chờ đợi. Hôm đó việc trao đổi thận giữa 12 người trong 4 bệnh viện xảy ra thật là ngoạn mục. Cuộc giải phẩu liên hoàn thành công mỹ mãn,  tất cả bệnh nhân đều khỏe mạnh!
         Ghép cơ phận của người nầy vào cơ thể của người khác là một tiến bộ thần kỳ của ngành y khoa hiện đại. Từ năm 1965 đến nay có hơn 30,000 bệnh nhân tại Úc được kéo dài tuổi thọ nhờ vào việc hiến tặng của người khác.
         Trên thế giới, nước có tỉ lệ dân chúng ngõ ý hiến tặng cơ thể cao nhất là Do Thái với gần 51%, kế tiếp là Hoa Kỳ 38.50%, Anh quốc 33.60% và Úc 32%. Ngày nay một người có thể hiến tặng đến 10 cơ phận, như tim, phổi, gan, thận, lá lách v.v…ngoài ra còn có những thứ mà trước đây không ghép được như van tim, tủy xương, da và tế bào mắt nhưng bây giờ y khoa có thể dùng đến. Cho nên trước đây gọi là “hiến tặng cơ phận” (organ donation), thì nay gọi là “hiến tặng cơ phận và tế bào” (organ and tissue donation). Ở mỗi tiểu bang nước Úc đều có văn phòng Donate Life để quảng bá ích lợi của việc hiến tặng cơ thể cứu sống người khác. Số điện thoại miễn phí 1800 777 203.

         Sứ đồ Phao-lô đã kinh nghiệm một sự hiến tặng kỳ diệu. Và ông đã viết: “Tôi sống không phải là tôi sống nữa, nhưng Đấng Christ sống trong tôi…Con Đức Chúa Trời, là Đấng đã yêu tôi và phó chính mình Ngài vì tôi” (Ga-la-ti 2:20). Không phải là hiến tặng một phần thân thể, mà Đấng Christ đã hiến tặng chính mình Ngài, tất cả, cho sự sống bất diệt của mỗi chúng ta!

ROBIN WILLIAMS

Ngày 11 tháng 8 năm 2014 vừa qua, danh hài thế giới Robin Williams đã tự kết liễu cuộc đời, hưởng thọ 63 tuổi. Ông ra đi để lại niềm thương tiếc cho nhiều người ở khắp mọi nơi.
Robin không phải là danh hài duy nhất trải qua nỗi cô đơn cùng cực và bệnh trầm cảm. Trước ông, một người rất nổi tiếng trong việc mang tiếng cười cho nhân loại là Charlie Chaplin mà chúng ta thường gọi là Hề Charlot cũng đã từng chịu trầm cảm và từng có ý định tự tử. Trong hồi ký Charlot kể lại rằng có nhiều đêm âm thầm khóc một mình đằng sau sân khấu.
Điều rất lạ là hầu hết các nhà tâm lý đều kết luận rằng có một mối liên hệ chặt chẽ giữa óc hài hước và bệnh trầm cảm. Nghĩa là đằng sau những nụ cười là tiếng khóc không thành tiếng, những đau khổ triền miên. Hơn thế nữa, họ còn tìm ra một bí ẩn ở các danh hài, là đa số đều có một tuổi thơ bất hạnh. Nụ cười của họ đã được tạo thành từ những đau thương của thời niên thiếu. Giáo sư Gordon Claridge làm một cuộc khảo nghiệm trên 500 danh hài và đi đến kết luận: tiếng cười họ đem đến cho khán giả cũng chính là liều thuốc để họ tự chữa lành đau khổ nội tâm!
Robin Williams xuất thân từ một gia đình thượng lưu. Thời thơ ấu sống trong một căn nhà 40 phòng, cha mẹ thường hay đi vắng, cậu bé Robin lúc nào cũng thấy cô đơn, nhút nhát. Kịch nghệ là môi trường để ông thoát ra nỗi ám ảnh của tuổi thơ nhung lụa mà thiếu vắng tình thương. Bên ngoài lúc nào cũng tươi cười mà trong nội tâm luôn dày xéo bởi ám ảnh cô đơn, trầm mặc. Sau phim ảnh, diễn hài, ông lao vào công cuộc từ thiện với niềm hi vọng thoát ra nỗi phiền muộn chồng chất trong lòng. Nhưng rồi cuối cùng cũng đành chịu thua, gục ngã trước gánh nặng của cuộc đời.

Không biết đã có ai chia xẻ với Robin Williams lời nầy chăng? “Sự bình an của Đức Chúa Trời VƯỢT QUÁ mọi sự hiểu biết, sẽ gìn giữ lòng và ý tưởng anh em trong Đức Chúa Giê-xu Christ” (Phi-líp 4:7). Robin đã cho nhân loại nhiều tiếng cười, nhưng ông chưa trải nghiệm sự bình an kỳ diệu của Thiên Chúa, VƯỢT QUÁ tất cả sự khôn ngoan, tầm hiểu biết của toàn cõi nhân sinh!