Monday, 26 December 2016

MỖI NGÀY TÔI CHỌN MỘT NIỀM VUI


“Mỗi Ngày Tôi Chọn Một Niềm Vui” là đề tựa một trong những tác phẩm hay của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Lời ca chan chứa tình người:
Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui 
Cùng với anh em tìm đến mọi người 
Tôi chọn nơi này cùng nhau ca hát 
Để thấy tiếng cười rộn rã bay.
Và như thế tôi sống vui từng ngày 
Và như thế tôi đến trong cuộc đời 
Đã yêu cuộc đời này bằng trái tim của tôi.
“Mỗi buổi sáng thì lại mới luôn. Sự thành tín Ngài là lớn lắm” (Ca Thương 3:23). Khi bình minh ló dạng, ai cũng ước mong sẽ đón chào một ngày phước hạnh. Nhưng rồi dư âm phiền muộn ngày hôm qua kéo đến; lo âu, đau khổ, giận hờn bỗng dưng hiện về, khiến chúng ta khó lòng thưởng thức trọn vẹn“ngày mới” mà Chúa thành tín ban cho. Thế là ngày lại ngày ta mòn mỏi, trĩu nặng trên vai những ưu tư, tranh đấu với bất an, co mình trong nỗi bi ai, thù oán. Cuộc đời cứ thế trôi qua. Vẫn biết Chúa là nguồn an bình mà sao ta mãi chìm đắm trong băng giá, ưu phiền?
Nguyện cầu trong năm 2017, mỗi ngày ta để lòng lắng xuống, thanh tịnh, chọn cho mình một niềm vui, chọn cho mình một trong những mỹ đức huyền diệu của Thánh Linh làm hành trang vào đời: YÊU THƯƠNG – VUI MỪNG – BÌNH AN – NHỊN NHỤC – NHƠN TỪ - HIỀN LÀNH – TRUNG TÍN – MỀM MẠI – TIẾT ĐỘ. (Ga-la-ti 5:22,25).


Rồi ta sẽ thỏa lòng thưa với Chúa rằng: “Cảm ơn Ngài mỗi sớm mai thức dậy, con có thêm ngày nữa để yêu thương!”

Friday, 2 December 2016

ĐẤNG GIỮ LỜI HỨA

Những nhà chánh trị khi ra ứng cử thường hứa rất nhiều. Rồi khi đã đạt được chiếc ghế, thì những lời ngon ngọt đó chẳng còn lại bao nhiêu! Dân chúng chỉ mong ông ta thực hiện những lời đã hứa khi còn tranh cử, được chừng nào mừng chừng nấy.
Thế nhưng lúc gần đây lại có một hiện tượng ngược lại. Ông Donald Trump đắc cử tổng thống Hoa-kỳ là một ngạc nhiên rất lớn. Và điều kỳ lạ là người ta mong rằng sau khi nhậm chức, xin ông đừng làm những gì ông đã hứa trong thời gian vận động. Dường như ông càng thất hứa bao nhiêu, thì thế giới lại càng nhẹ nhõm bấy nhiêu. Thí dụ, ông tuyên bố nếu đắc cử, sẽ “nhốt bà Clinton vào tù” bây giờ ông nói “tôi không muốn làm thương tổn bà ấy”. Ông còn đòi xây một bức tường dọc theo biên giới Mễ-tây-cơ và Mỹ, bắt chính phủ Mễ trả tiền, bây giờ giọng nói của ông không còn hung hăng như trước. Ông còn hăm sẽ hủy bỏ chương trình bảo hiểm y tế Obamacare mà tổng thống Obama dày công tổ chức, nhưng sau khi đắc cử, ông tỏ ý sẽ hoàn chỉnh và thực hiện kế hoạch bảo hiểm nầy. Thế là bà Clinton vẫn phây phây giữa phố, bức tường vạn lý Mỹ-Mễ bị lãng quên, nhiều lời hăm dọa như bong bóng bị xì hơi. Thế giới thở phào một chút, hi vọng sau tháng 1 năm 2017 nước Mỹ sẽ có một tổng thống hiền hơn, yêu mến đồng bào hơn, và kiến tạo một thế giới tốt đẹp hơn.
Ai cũng mong người khác giữ lời hứa với mình. Vì thường khi hứa, người ta nói ra nhiều lời ngon ngọt. Có thể lúc đó họ rất chân tình, mà vì hoàn cảnh hay một áp lực nào đó, trở thành Cuội, thành những “con ma nhà họ Hứa”. Bởi vì là con người, chúng ta có khi “tâm thần thì muốn lắm, mà xác thịt thì yếu đuối”.

Thánh Kinh cho nhân loại biết chắc một điều: Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng, những gì Ngài đã hứa, Ngài sẽ làm trọn. Qua suốt dòng lịch sử, quả thật những điều Ngài phán đều ứng nghiệm. “Dầu núi dời, dầu đồi chuyển, nhưng lòng nhân từ của Ta đối với ngươi chẳng dời khỏi ngươi, lời giao ước bình an của Ta chẳng chuyển. Đức Giê-hô-va, là Đấng thương xót ngươi, phán vậy” (Ê-sai 54:10).

Saturday, 8 October 2016

VƯƠNG ĐIỆP (MONARCH BUTTERFLY)

Ở nước Gia-nã-đại có một loài bướm nổi danh, nhiều người biết đến, là Monarch Butterfly (dịch là Vương Điệp). Cứ đến mùa Thu, khi lá vàng bay theo gió, loài bướm nầy tụ họp hàng triệu con tại những đồng cỏ, nhởn nhơ vài ngày với bông hoa dại cuối mùa, rồi theo một hiệu lệnh bí mật nào đó, chúng đồng loạt cất cánh xuôi Nam.
Thân hình mảnh dẻ, nhỏ bé, nhưng sức mạnh phi phàm. Chúng bay gần 3000 cây số, xuyên qua nước Mỹ, băng ngang Trung Mỹ để xuống tận miền Nam Mỹ. Thế rồi, sau mùa Đông băng giá, khi tiết Xuân về, chúng tập họp nhau như đã hẹn để cùng bay trở lại quê hương Gia-nã-đại. Trên đường hồi hương, chúng dừng lại nhiều trạm, yêu nhau và đẻ trứng. Đời bướm ngắn ngủi, những con rời xứ mùa Thu trước sẽ chết trên đường về, không bao giờ thấy lại cố hương. Nhưng từ mớ trứng đẻ tại những đồng hoang cỏ nội dọc đường, nở ra những con sâu róm, tham ăn chóng lớn, dệt kén chui vào thành nhộng. Đủ ngày, nhộng hóa bướm xinh tươi. Và đàn bướm nhỏ hậu sinh mới lớn đó lại cùng tụ tập bay tiếp chuyến về cố quốc mà cha mẹ đã gãy cánh dở dang. Về một cội nguồn không phải nơi mình sinh ra! Một nơi chưa hề thấy, không một chút kỷ niệm thương yêu. Thường phải qua ba bốn thế hệ tiếp nối mới hoàn tất lộ trình hồi hương. Đời nầy sang đời kia, cứ mãi mãi làm như thế.
Làm người, tôi cũng chỉ là một sinh vật nhỏ bé yếu đuối như loài chim, loài bướm. Nhưng trong tôi, và cũng hẳn như trong mọi người, lúc nào cũng có một niềm mơ ước quay về. Quay về với nguồn cội, với tổ tiên, với quê hương dân tộc. Và cao cả hơn nữa, quay về với Đấng đã tạo dựng nên tôi, cưu mang tôi từ trong lòng mẹ, cho tôi hơi thở vào đời. Đấng yêu tôi và đã phó chính mình Ngài vì tôi.

Trong nỗi niềm khao khát đó, tôi đã nói, như người con trai hư hỏng từng tự nhủ “Ta sẽ đứng dậy, trở về cùng Cha”. Vì tôi biết chắc rằng Cha tôi, Đấng Từ Ái, sẽ chờ đón tôi với lòng thương yêu, bao la dung thứ: “Khi còn ở đằng xa, cha nó thấy thì động lòng thương xót, chạy ra ôm lấy cổ và hôn” (Lu-ca 15:11-24).

LẠM PHÁT DƯỚI ÂM PHỦ

Chúng ta thường theo dõi đồng Úc kim trồi sụt hằng ngày, nhứt là những người sắp gửi tiền về Việt Nam hay chuẩn bị đi du lịch. Lạm phát càng cao, đời sống càng chật vật.
Ở dưới âm phủ cũng đang bị lạm phát trầm trọng! Bạn hẳn không tin, nhưng nhiều người dân Hong Kong quả quyết như thế. Những năm trước, khi họ cúng cho người chết, tiền âm phủ được đốt để gửi xuống cho thân nhân thường có mệnh giá tối đa là 1 tỉ đô-la. Năm nay những cộc tiền với con số 1000 tỉ màu sắc lộng lẫy là món hàng bán chạy nhất! Một chủ tiệm bán đồ cúng phát biểu: ‘Lạm phát xảy ra ở khắp mọi nơi, nên tất nhiên nó cũng xuất hiện dưới âm phủ!’.
Ngoài tiền mặt, họ cũng gửi nhiều thứ cao cấp như biệt thự hạng sang, xe hơi xịn, TV đời mới và nhất là những tấm thẻ tín dụng có số tiền khổng lổ, để bảo đảm thân nhân dưới suối vàng sống cuộc đời nhung lụa. Dĩ nhiên kèm theo những đồng bạc lớn, họ cũng không quên gửi một ít tiền nhỏ. Bà Li nói: ‘Các cụ cần tiền lẻ để mua sắm thức ăn và tiêu dùng hằng ngày!’. Họ cả quyết rằng ở dưới địa phủ cũng có những quan chức ăn hối lộ, nên ngoài tiền xài còn phải đút lót cho chính quyền tại đó để yên thân. Ông Cheung thổ lộ: ‘Ở cõi âm các cụ cũng cần tiền đánh bài giải trí. Không có tiền, sợ họ kém vui!’.

Lời của Thượng Đế đã minh xác: Ở dưới âm phủ, chỉ có “than khóc và nghiến răng”. Duy nhất một nơi mà nhân loại vui hưởng vinh hoa, hỉ lạc là khi rời khỏi đời nầy được về đến “sông nước hằng sống trong như pha lê, chảy từ ngai Đức Chúa Trời và Chiên Con.’. Ở đó có không còn đêm tối, không còn nguyền rủa, không nước mắt oán than mà chỉ có cây trường sinh, sự chữa lành và nguồn phước hạnh! (Khải Huyền 22:1-5).

Wednesday, 5 October 2016

NGHỀ NGUY HIỂM NHẤT

Cứu người là một công tác rất cao đẹp. Những nhân viên cứu nạn luôn được công chúng mang ơn và tín nhiệm vì sự hiểu biết và tinh thần dấn thân phục vụ. Nhưng cuộc khảo cứu gần đây cho biết làm nhân viên cấp cứu là một nghề đối diện với nhiều mối hiểm nguy nhất, dễ chết nhất.
Giáo sư Brian Maguire thuộc Hiệp Hội Sức Khỏe Công Chúng Úc, sau khi khảo sát các tai nạn từ năm 2000 đến 2010, đã tường trình rằng mức thương vong của các nhân viên cấp cứu cao gấp hai lần lực lượng cảnh sát.
Giáo sư Maguire phát biểu trong hội nghị rằng: “Không có nghề nào nguy hiểm bằng nghề cấp cứu. Mức độ tử thương cao ở những người nầy liên quan đến vấn đề giao thông, như xe cứu thương bị nạn, trực thăng rơi, bị xe đụng khi đang cấp cứu. Ngoài ra còn có những vụ bạo hành dẫn đến tử vong những nhân viên nầy khi người gặp nạn say rượu hay đang phê cần sa, ma túy”.
Cứu thể xác phải đối diện với hiểm nguy như thế, cứu linh hồn con người khỏi chốn trầm luân có phải chịu đựng điều gì chăng? Lịch sử cho biết, trong số 11 môn đệ còn lại của Chúa Giê-xu đã có đến 10 người chịu chết vì rao truyền Đạo Ngài. Phi-e-rơ bị đóng đinh ngược trên cây thập tự, Anh-rê chịu tử hình trên thập tự hình chữ X, Thô-ma, Gia-cơ bị chém đầu. Sứ đồ Phao-lô kể lại đã từng ‘hai lần bị ném đá’  và cuối cùng cũng bị xử trảm tại thành La-mã. Trong suốt dòng lịch sử Hội Thánh đã có biết bao người vì Danh Chúa mà chịu hi sinh.
“Có kẻ chịu nhạo cười, roi vọt, lại cũng chịu lao tù xiềng xích nữa. Họ đã bị ném đá, tra tấn, cưa xẻ, bị giết bằng lưỡi gươm, lưu lạc rày đây mai đó, mặc những da chiên da dê, bị thiếu thốn mọi đường, bị hà hiếp, ngược đãi. Thế gian không xứng đáng cho họ ở, phải lưu lạc trong đồng vắng, trên núi trong hang, trong những hầm dưới đất…” (Hê-bơ-rơ 11:36-38).

Nhưng cuối cùng thì “những bàn chân của kẻ rao truyền Tin Lành là tốt đẹp biết bao” (Rô-ma 10:15)

NÓI HAY KHÔNG?

Socrates là một triết gia lừng danh của Hi-lạp trong thời trung cổ. Ngày kia có một người quen đến gặp ông và nói:
-Tôi mới vừa nghe chuyện về một người bạn của Ngài, muốn nói cho Ngài biết.
Socrates trả lời:
-Xin đợi một chút. Trước khi được nghe về chuyện đó, chúng ta hãy làm một cuộc trắc nghiệm, gọi là “bài gạn lọc ba bước”.
-Một bài trắc nghiệm?
-Vâng, bước đầu tiên là sự thật. Ông có chắc điều ông sắp nói hoàn toàn là sự thật chăng?
-Không chắc lắm, thật ra tôi chỉ được nghe kể lại.
-Được rồi, bây giờ qua bước thứ hai, lòng tốt. Những gì ông sắp nói là do lòng tốt của ông chứ?
-Không, có thể là ngược lại.
-Như vậy, ông dự định nói một điều không tốt về bạn tôi, mà chưa chắc đó là sự thật. Bây giờ ta qua bước thứ ba, hữu ích. Những gì ông sắp nói có mang lại lợi ích gì không?
-Không, tôi nghĩ thật sự là không.
Socrates kết luận:
-Điều ông muốn nói không chắc là sự thật, không phải vì lòng tốt, và sẽ không mang lại lợi ích. Thế thì ông nói với tôi để làm gì? Tôi chẳng muốn nghe!

Thánh Kinh dạy: “Chớ có một lời dữ nào ra rừ miệng anh em. Nhưng khi đáng nói, hãy nói một vài lời lành, giúp ơn cho và có ích lợi cho kẻ nghe đến”.(Ê-phê-sô 4:29)

Monday, 3 October 2016

HÃY THẮP LÊN MỘT QUE DIÊM

Tại vận động trường Los Angeles, đêm nọ tiến sĩ John Keller được mời diễn thuyết trước đám đông 100.000 người. Giữa bài nói chuyện, ông dừng lại và nói: ‘Xin Quý Vị đừng sợ nhé! Tôi sắp cho tắt hết đèn trong sân vận động nầy’. Đèn tắt. Tất cả chìm vào bóng tối âm u. John Keller nói: ‘Tôi sẽ đốt lên một que diêm. Những ai thấy ánh lửa thì vui lòng la to: Đã thấy!’.

Ông đốt một que diêm. Cả sân vận động vang lên: ‘Đã thấy!’. Rồi đèn bật sáng trở lại. John Keller giải thích: ‘Ánh sáng của một hành động nhân ái dù bé nhỏ như một đóm lửa của que diêm cũng sẽ chiếu trong đêm tối trần gian như vậy’. Ông lại cho tắt đèn một lần nữa. Trong bóng tối, ông nói: ‘Những ai ở đây đang có diêm quẹt, xin hãy đốt lên’. Bỗng chốc cả vận động trường rực sáng. John Keller kết luận:
‘Nếu tất cả chúng ta cùng hợp lực với nhau có thể chiến thắng bóng tối của hận thù, chiến tranh, nghèo đói, bệnh tật bằng những đóm sáng nhỏ của tình thương, sự tha thứ và lòng quãng đại. Hòa bình không chỉ là vắng bóng của chiến tranh, vì con người cứ mãi làm khổ cho nhau. Cách tốt nhất để kiến tạo hòa bình là tăng thêm thật nhiều hành động yêu thương. Những việc làm nhân ái sẽ như những đóm sáng nho nhỏ của que diêm, nhưng nếu ta cùng chung sức đốt lên sẽ hợp thành sức mạnh xua tan màng đêm đau khổ, bạo tàn’.

“Thà đốt lên một ngọn nến, hơn là ngồi đó nguyền rủa bóng tối”. Hãy thắp lên ngọn nến phục vụ giữa bóng tối tham lam, ích kỷ. Hãy thắp lên ngọn nến chân thật, xua đi lọc lừa, gian trá. Hãy thắp lên ngọn nến yêu thương giữa hận thù, chia rẽ. Hãy thắp lên ngọn nến thủy chung trong xã hội dẫy đầy phản bội.

Làm như thế ta sẽ thấy hoa hạnh phúc nở rộ, niềm mơ ước hòa bình đơm bông kết quả như Lời Chúa phán: “Sự sáng các ngươi hãy soi trước mặt người ta như vậy, đặng họ thấy những việc lành của các ngươi, và ngợi khen Cha các ngươi ở trên trời”– Ma-thi-ơ 5:16.

Friday, 9 September 2016

CẢM XÚC TRÊN GƯƠNG MẶT

Có bao nhiêu cảm xúc thể hiện trên gương mặt của con người? Thường thường chúng ta biết có bảy thể hiện khác nhau: “hỉ, nộ, ái, ố, ai, lạc, dục” nghĩa là mừng, giận, thương, ghét, buồn, vui, muốn.
Nhưng mới đây các nhà khoa học người Mỹ xử dụng một chương trình trên máy điện toán và cho biết gương mặt con người diễn đạt cả thảy 21 cảm xúc khác nhau. Tiến sĩ Alex Martinez nói: “Chúng tôi tìm thấy đằng sau những biểu lộ thông thường như vui, buồn hay sợ hãi, những bắp thịt trên mặt còn có khả năng phối hợp để bày tỏ rất nhiều cảm xúc”. 21 biểu lộ đó gồm có: vui, buồn, sợ, giận, ngạc nhiên, chán ghét, ngạc nhiên cách vui mừng, sợ hãi cách buồn bã, giận cách buồn bã, ngạc nhiên cách buồn bã, chán ghét cách buồn bã, giận cách sợ hãi, ngạc nhiên cách sợ hãi, chán ghét cách sợ hãi, ngạc nhiên cách giận dữ, chán ghét cách giận dữ, ngạc nhiên cách chán ghét, bị sốc, căm hờn, kinh sợ và ghê tởm.
Khi có một sự kiện bất ngờ xảy ra, chúng ta không cần chọn lựa mà “tự động” các cơ bắp hoạt động theo tình trạng tâm lý để có một thể hiện thích hợp nhất trong hoàn cảnh đó. Ngoại trừ trường hợp mình giả tạo gương mặt nhằm đóng kịch cho một mục đích mờ ám, như Nguyễn Du viết “Bề ngoài thơn thớt nói cười, mà trong nham hiểm giết người không dao” (Truyện Kiều).
Mỗi khám phá của các nhà khoa học là một ngạc nhiên cho chúng ta về sự huyền diệu trong công cuộc sáng tạo của Thiên Chúa. Ngài không những ban sự sống cho loài người, mà còn đặt vào tâm hồn muôn màu sắc kỳ lạ để năm tháng trên trần thế phong phú, đa dạng.

Làm người Cơ-đốc, chúng ta không cần “chuẩn bị sẵn một gương mặt” khi đến nhà thờ hay khi bon chen trong cuộc sống, mà chỉ cần tâm nguyện xin Ngài vun xới, làm cho nở rộ trong chúng ta “lòng yêu thương, sự vui mừng, bình an, nhịn nhục, nhơn từ, hiền lành, trung tín, mềm mại, tiết độ”. Bởi vì những gì chất chứa trong lòng sẽ thể hiện qua từng giọng nói, từng ánh mắt, từng nụ cười hằng ngày trên hành trình theo Chúa. (Ga-la-ti 5:22).

Thursday, 8 September 2016

HOA THỦY TIÊN

Trong kho tàng thần thoại Hi-lạp có câu truyện chàng thanh niên tên Narcissus. Chàng có thân hình và gương mặt rất đẹp, được nhiều cô gái mến mộ, nhưng chàng chẳng thích một ai, vì tự cho rằng chỉ có mình mới xứng đáng với tình yêu của mình. Một hôm Narcissus đi săn và nghỉ ngơi bên bờ hồ thơ mộng. Khi nhìn xuống mặt nước tĩnh lặng, chàng thấy vẻ tuyệt mỹ của mình hiện ra. Và chàng say mê chính mình, chìm đắm trong tình yêu với chính bản thân mình. Nhưng mỗi khi đưa tay chạm vào mặt nước, bóng hình ấy tan vỡ từng mảnh, khiến chàng rất đau khổ. Từ đó chàng cứ mãi đứng lặng yên bên dòng nước để tự chiêm ngưỡng dung nhan, đến nỗi quên ăn quên ngủ, kiệt sức mà chết. Về sau trên phần mộ mọc ra một loài hoa thật đẹp. Người ta đặt tên loài hoa đó là Narcisse, tiếng Việt gọi hoa Thủy Tiên.
Ngày nay trong y học, chữ narcissi được dùng để gọi tên chứng bịnh ái kỷ hay bệnh tự yêu mình. Đây là một dạng rối loạn nhân cách khi một người biểu hiện tự cao, ảo tưởng rằng chỉ có mình là đẹp, là tốt, là hoàn hảo. Họ tự cho mình quan trọng, độc nhất, đặc biệt hơn hẳn người khác. Họ không cần thấu hiểu tha nhân mà chỉ muốn được ca ngợi, tôn sùng. Họ muốn người khác phải lụy mình, thích đổ lỗi, không thèm đoái hoài đến ý kiến của ai, không cần biết nhu cầu của người khác mà chỉ đòi hỏi người ta phải đánh giá mình như ý mình muốn. Họ tỏ ra cuồng nộ khi bị phê bình và khó chịu khi bị chỉ trích. Người mắc phải chứng “narcisse” tự giam mình trong chiếc vỏ của cái “tôi”, không thích lắng nghe người khác, nhất là khi lời nói chạm đến bản thân mình, dù là những ý kiến rất thân ái, rất gây dựng. Trong xã hội có rất nhiều người mắc chứng bệnh tâm lý nầy, vì xét cho cùng, mỗi chúng ta ít nhiều đều mang bản tánh “narcisse”!

Thánh Francis trong bài thơ “Kinh Hòa Bình” đã viết:”Chính lúc quên mình, là lúc gặp lại bản thân”. Kinh nghiệm cho biết khi ta càng cố gắng đến với người khác để lắng nghe bằng thái độ nhu mì, chân thành, quên mình, ta càng tìm lại được chính con người của mình! Thánh Kinh dạy: “Hãy hạ mình xuống trước mặt Đức Chúa Trời, thì Ngài sẽ nhắc anh em lên”(Gia-cơ 4:10). Đến với Chúa bằng tâm tình khiêm nhường cũng chính là lúc ta được chữa lành chứng bệnh “ái kỷ”, chứng bệnh tự yêu mình cuồng nhiệt, để mở rộng vòng tay thân ái đến với tha nhân!

Tuesday, 30 August 2016

CHỢ ĐEN CƠ PHẬN

Ở Úc có hơn 1500 bệnh nhân đang chờ được ghép thận. Mặc dầu hiện nay có trên 6 triệu người tình nguyện hiến tặng cơ phận sau khi chết, nhưng người bệnh thường phải chờ trung bình 3 năm mới có thận để thay thế. Vì chờ đợi quá lâu, nhiều người quyết định mua thận chợ đen ở nước ngoài thay vì phải chết trước khi được hiến tặng.
Nơi người bệnh tại Úc thường đến để tìm cơ phận thay thế là Trung quốc, Sri Lanka, Pakistan và nhất là Phi-luật-tân (Philipines). Trong những khu ổ chuột ở đất nước nghèo thiếu nầy, nhiều người đồng ý bán vài phần thân thể cho con buôn chợ đen để thoát cảnh bần cùng. Bọn môi giới sẽ liên lạc ra giá với người mua tại Úc. Sau khi thương lượng thành công, bệnh nhân sẽ vào một bệnh viện của Phi-luật-tân để được giải phẩu. Nếu chuyện nầy bị tiết lộ, họ có thể bị truy tố và mang án tù dài hạn.
Một người Úc mua thận thường tốn 120.000 đến 200.000 dollars. Nhưng người bán chỉ nhận được khoảng 1000 hay 1500 đô. Số còn lại rơi vào tay bọn con buôn, các bác sĩ và viên chức chính quyền để bao che cho việc làm phạm pháp, vô nhân đạo nầy. Bệnh nhân Úc được ghép thận chợ đen sau khi quay về nước thường mang theo những biến chứng nghiêm trọng, chính phủ lại phải tốn hàng chục ngàn dollars để tiếp tục điều trị.
Chúng ta từng nghe nói những tổ chức tội phạm tại Mễ-tây-cơ hay ở Trung Đông giết chết nhiều người tị nạn hoặc tù chính trị để lấy cơ phận bán cho bệnh nhân ở nước giàu có. Biết bao xác người bị phanh thây vô thừa nhận là bằng chứng cho thấy tội ác của những tổ chức kinh doanh trên thân thể đồng loại. Ngay cả ở Úc, dầu luật pháp gắt gao mà vẫn còn chỗ hở cho những người đi ra nước ngoài mua ghép cơ phận rồi trở về làm hao tốn công quỹ nhà nước mà vẫn không bi rắc rối với pháp luật. Có bao giờ họ nghĩ rằng để kéo dài sự sống của mình bằng tiền bạc cũng có thể là đã chấm dứt cuộc đời của một người khốn khổ nào đó?

Việc hiến tặng và nhận lãnh cơ phận không đi ngược lại sự dạy dỗ của Kinh Thánh. Chúa Giê-xu đã phán: “Chẳng có sự yêu thương nào lớn hơn là vì bạn hữu mà phó sự sống mình” (Giăng 15:13). Ngài cũng đã hiến tặng sự sống trên thập tự giá để cứu rỗi nhân loại. Nhưng tất cả, dù cho hay nhận, cũng đều với mục đích cao cả là “làm vinh hiển Đức Chúa Trời”. Đó mới chính là ý chỉ tốt lành đến từ thiên thượng!

Wednesday, 10 August 2016

CÓ PHẢI TIN CHÚA LÀ BẤT HIẾU VỚI TỔ TIÊN, CHA MẸ?

Người Việt Nam là một trong những dân tộc chịu nhiều đau khổ nhất trên thế giới.  Chiến tranh, áp bức, nghèo thiếu là những nỗi đau khó phai mờ trong lòng dân tộc.  Nhưng người Việt cũng là một dòng giống có đức tính chịu đựng, khoan dung, tha thứ, có sức mạnh tinh thần, kiên cường bất khuất, có truyền thống gia đình hiếu thảo tốt đẹp.  Người Việt cũng là dân tộc “tâm linh”. Phần lớn đồng bào ta đều có đạo và sùng đạo, nhất là việc thờ cúng ông bà, cha mẹ. Chúng ta xem đó như một tôn giáo. Bởi thế, rất nhiều người cho rằng những tín đồ của Chúa chủ trương không lập bàn thờ, không cúng giỗ là không hiếu kính cha mẹ. Đây là một trong những hiểu lầm đáng tiếc.
Có phải tin Chúa là bất hiếu vì bỏ ông bà, cha mẹ không?
Câu trả lời khẳng định là không! Cho rằng người tin Chúa bất hiếu, bỏ ông bà cha mẹ là do thành kiến. Thành kiến nầy đến từ cách người Tin Lành bày tỏ lòng hiếu thảo đối với cha mẹ, tổ tiên.  Người Tin Lành biểu lộ sự hiếu thảo đối với ông bà cha mẹ là khi còn sống. Lúc qua đời con cháu phải lo chôn cất chu đáo theo nghi lễ trang nghiêm, trong tinh thần tiếc thương, hy vọng, ngoài ra không nhang đèn, không lập bàn thờ bài vị, không van vái, không cúng bái người đã chết.  Có lẽ vì không làm theo phong tục cổ truyền đối với người quá cố như những người khác nên bị hiểu lầm là bỏ ông bà cha mẹ, là bất hiếu.
Tôn giáo nào cũng dạy con người đạo hiếu thảo vì đó là nền tảng cho sự sinh tồn của nhân loại.  Tin Lành là Đạo KÍNH CHÚA – YÊU NGƯỜI, lấy lời Đức Chúa Trời làm mẫu mực thiêng liêng cho cuộc sống, lại càng dạy dỗ, khuyên bảo tín hữu hết lòng hiếu kính đúng như lời Chúa dạy. 
Trong Thánh Kinh, Đức Chúa Trời dạy rõ:  “Phải hiếu kính cha mẹ, như vậy ngươi được sống lâu trên đất Chúa Hằng Hữu, Đức Chúa Trời ban cho” (Xuất 20:12) và “Ai đánh đập, chửi rủa cha mẹ, phải bị xử tử” (Xuất 21:15, 17).  Chúa Giê-xu đã lên án thái độ giả hình của những người mượn lý do tôn giáo để bỏ bê bổn phận đối với cha mẹ.  Sứ đồ Phao-lô cũng liệt kê hành động bội nghịch cha mẹ như là tội ác của nhân loại.  Ông khuyên “Con cháu trước phải học làm điều hiếu thảo với nhà riêng mình và báo đáp cha mẹ” (I Ti-mô-thê 5:4).  Ông cũng nhắc lại điều răn Chúa dạy:  “Phải hiếu kính cha mẹ, là điều răn đầu tiên có kèm theo lời hứa nhờ đó con mới được phước và sống lâu trên đất” (Ê-phê-sô 6:1-3).  Nói cách khác, một người Tin Lành muốn phước hạnh và trường thọ phải thực lòng hiếu kính cha mẹ theo như lời Đức Chúa Trời dạy.
Thế tại sao Tin Lành không cúng bái, không thờ lạy người quá cố?  Người Tin lành cũng là người Việt Nam biết tôn trọng truyền thống văn hóa tốt đẹp của tiền nhân để lại, nhưng những phong tục nào không phù hợp với lời Chúa dạy thì không thể vâng theo.
Thánh Kinh dạy rõ:  “Lúc trước anh em đương còn tối tăm, nhưng bây giờ đã trở nên người sáng láng trong Chúa. Hãy xét điều chi vừa lòng Chúa và chớ dựa vào công việc vô ích của sự tối tăm” (Ê-phê-sô 5:8-11).  Lời Chúa dạy người tín đồ phải hết lòng yêu thương, vâng lời, giúp đỡ, phụng dưỡng cha mẹ khi tuổi già sức yếu, đồng thời tôn kính tổ tiên, giữ danh thơm tiếng tốt cho gia đình, dòng họ.  Chữ hiếu chỉ có giá trị đích thực khi con cháu bày tỏ lòng hiếu thảo, báo đáp lúc cha mẹ còn sống.
Một món ăn ngon lúc đói lòng, cái áo ấm khi trời lạnh, lon sữa, thuốc men khi ốm đau, lời thăm hỏi ân cần khi buồn bã thiết tưởng có giá trị muôn phần hơn mâm cao cổ đầy và tiếng khóc than thảm thiết lúc ông bà cha mẹ đã khuất.  Bởi vì khi họ qua đời thì lập tức bước vào cõi vĩnh hằng do Chúa quyết định.  Nếu đã tin thờ Chúa thì được hưởng nước thiên đàng như lời Chúa Giê-xu phán “Hỡi các ngươi được Cha ta ban phước, hãy đến mà nhận lấy nước thiên đàng đã sắm sẵn trước cho các ngươi từ khi dựng nên trời đất.” (Ma-thi-ơ 25:34).  Nếu không tin thờ Chúa thì chờ ngày Chúa phán xét công bình như Kinh Thánh khẳng định:  “Theo như đã định cho loài người phải chết một lần rồi chịu phán xét” (Hê-bơ-rơ 9:27).  Ông bà, cha mẹ dù yêu thương chúng ta bao nhiêu đi nữa, khi đã qua đời, thì không còn liên lạc gì với trần gian, không có quyền ban phước hay giáng họa, không hưởng được lễ vật từ sự cúng bái.  Tất cả những phước hạnh chúng ta thụ hưởng đều hoàn toàn do Đức Chúa Trời ban cho.  Chúng ta phải hết lòng biết ơn Ngài, thờ phượng Ngài, cầu khẩn với Ngài mới là phải lẽ.  Người xưa có nói:  “Sống không cho ăn, chết làm văn tế ruồi”.  Vả lại khi con cháu cúng giỗ, không hề có chuyện người chết về ăn, chỉ có người sống ăn uống với nhau, đôi khi trở thành dịp nhậu nhẹt, rồi sanh ra cãi cọ rầy rà không hay.  Giả sử người chết hưởng được của cúng thì liệu người sống có còn bình tĩnh ngồi ăn không?  Nếu bảo phải thắp nhang đèn, phải lập bàn thờ, bài vị, phải cúng giỗ theo lối cổ truyền mới có hiếu, thế thì có bao nhiêu dân tộc khác ở Âu châu, Mỹ châu, Úc châu và cả Phi châu không làm như vậy, thì họ bất hiếu cả sao? 
Dầu người tin Chúa không cúng giỗ nhưng cũng có thể tổ chức ngày kỷ niệm truyền thống gia đình.  Ngày họp mặt truyền thống đó, con cháu nhắc đến công ơn ông bà cha mẹ, cầu nguyện tạ ơn Chúa, xin Ngài ban bình an, sức khỏe cho người thân còn sống.  Người Tin Lành tôn trọng và thường xuyên thăm viếng, chăm sóc mồ mả tổ tiên.  Do ảnh hưởng của Cơ-đốc-giáo dạy mà nghĩa trang của các nước Âu Mỹ theo đạo Chúa được chăm sóc chu đáo, đẹp đẽ chẳng khác nào những công viên tươi đẹp. 
Người Tin Lành tin rằng loài người phải hết lòng thờ phượng Đức Chúa Trời theo như lời Chúa dạy trong Kinh Thánh mới là thờ đầy đủ.  Chúa là Đấng Tạo Hóa và bảo tồn vạn vật, cũng là Đấng cầm giữ họa phước trên đời sống nhân loại.  Thờ phượng Đức Chúa Trời giống như tưới vào gốc cây là tưới được cả cây, chứ không phải chỉ tưới cành, tưới ngọn.  Vả lại, điều răn của Chúa dạy phải được tôn trọng:“Trước mặt Ta ngươi chớ có các thần khác” (Xuất 20:3).

Người tin Chúa phải là người hiếu thảo theo cách đúng và thực tế như sự dạy dỗ của Đấng Tạo Hóa, Nguồn Cội của càn khôn vũ trụ.

Tuesday, 9 August 2016

ĐỨNG DẬY VÀ BƯƠN TỚI

Nhân Thế Vận Hội Rio 2016, xin nhắc lại hình ảnh cũ rất bi tráng của một vận động viên người Mỹ từng được mệnh danh là “Nhà Thể Thao Can Đảm Nhất Hoàn Vũ”.
Heather Dormiden là một nữ lực sĩ điền kinh.  Bộ môn chạy đua nầy đòi hỏi tốc độ, không những tính bằng phút, bằng giây và cả bằng “sao” (một giây bằng 100 sao). Thế mà trong trận đua tốc lực 600 mét vào tháng 3 năm 2008, khi còn 200 thước cuối, Heather Dormiden đã chạm phải một vận động viên khác và té sỏng soài trên đường chạy. Ở trường hợp nầy, đa số đều bỏ cuộc, ôm mặt khóc, hoặc hoàn tất đoạn đường còn lại trong nỗi tuyệt vọng. Lúc bấy giờ cô đã bị bỏ rơi hơn 30 mét.
Nhưng lạ thay, Heather đứng lên, tiếp tục chạy với sức mạnh phi thường. Trong tiếng reo hò cổ vũ của khán giả, cô sãi chân bằng tốc độ nhanh hơn, mạnh mẽ hơn, lần lượt vượt qua hết người nầy đến người khác. Ở mức cuối cùng, cô đã về nhì, sau người hạng nhất chỉ trong tích tắc, trước sự kinh ngạc và tiếng vỗ tay không dứt của hàng ngàn khán giả.
Heather Dormiden phát biểu: “Đó là kỷ niệm rất đáng nhớ trong đời tôi. Dường như có một quyền lực từ trên cao. Tôi cảm thấy Chúa đổ thêm sức mạnh, cho tôi một cơ hội để chứng minh rằng những điều kỳ diệu có thể xảy đến trong ân sủng của Ngài, dù hoàn cảnh bi đát nhất”.
Bạn thân mến, dẫu biết rằng cuộc sống là không công bằng và ta vẫn thường xuyên vấp ngã. Nhưng nếu dám chấp nhận rủi ro, dám tiến lên trong những thời điểm khó khăn nhất, dám đối mặt với kẻ bắt nạt, nâng đỡ người bị áp bức và không bao giờ nản lòng, bỏ cuộc. Làm được những việc gian truân này, chúng ta và các thế hệ nối tiếp sẽ sống trong một thế giới tốt hơn, một thế giới công bằng, vị tha và thịnh vượng.

Ba ngàn năm trăm năm trước, Thiên Chúa đã phán một lời khích lệ nhà lãnh đạo trẻ tuổi khi ông dẫn dân sự vào miền đất hứa: “Ta há không có phán dặn ngươi sao? Hãy vững lòng, bền chí, chớ run sợ, chớ kinh khủng, vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi vẫn ở cùng ngươi trong mọi nơi ngươi đi”. (Giô-suê 1:9). Hãy đứng dậy, và bươn tới, Bạn nhé!

Monday, 8 August 2016

THIỀN SƯ BANKEI

Vào thế kỷ 17, thiền sư Bankei mở trường thâu nhận đệ tử đến tu học. Môn đồ khắp nước Nhật quy tụ đông đảo, vì ngài rất đạo hạnh và tri thức.
Một hôm, các đệ tử bắt gặp một môn sinh phạm tội ăn cắp. Sự việc được trình lên thiền sư, xin ngài trục xuất. Bankei bỏ qua. Ít lâu sau, họ lại bắt gặp quả tang người ấy ăn cắp. Nhưng một lần nữa, Bankei lại bỏ qua. Ai ai cũng bất bình, đến nỗi họ đồng lòng làm một thỉnh nguyện thư đòi đuổi tên ăn cắp bỉ ổi đó, nếu không họ sẽ cùng nhau rời khỏi thiền viện.
Sau khi xem qua thỉnh nguyện thư, Bankei triệu tập tất cả môn sinh lại và nói: “Các vị tất cả đều là những người sáng suốt. Các vị có thể phân biệt điều nào đúng, điều nào sai. Các vị có thể tìm nơi khác vừa ý hơn để tu học. Nhưng vị sư đệ nầy chưa thấu hiểu đâu là lẽ phải, đâu là điều lầm lỗi. Ngoài ta ra, chẳng có ai chịu nhận dạy bảo anh ấy. Ta sẽ giữ anh ấy lại đây, dù các vị có bỏ ta mà đi”. Tất cả đều xúc động, bùi ngùi xin ở lại. Và trên gương mặt người đệ tử hư hỏng kia, một suối lệ tuôn trào. Từ đấy không còn ai tham lam, ăn cắp của người khác nữa!
Tấm lòng nhân hậu của thiền sư Bankei quả là mầu nhiệm. Cửa thiền đâu chỉ dành cho những nhà đạo đức, những người tốt lành. Nơi ấy là chốn đón mời kẻ lầm đường, lạc lối để hoán cải họ trở nên chân thật.
Hai ngàn năm trước, một người đàn bà lăng loàn bị bắt tại trận khi đang phạm tội, sắp bị ném đá. Đám đông hỏi ý của Chúa Giê-xu, Ngài bảo họ: “Ai trong các ngươi là người vô tội, hãy trước nhứt ném đá vào người”. Câu trả lời kỳ diệu đã cứu người phụ nữ khỏi chịu án tử hình. Khi mọi người bỏ đi, Ngài phán với bà: “Ta cũng không định tội ngươi, hãy đi, đừng phạm tội nữa!”. Lời phán ấy đã thay đổi cuộc đời một con ngươi hư hỏng, lầm lỡ.

Đây là sứ mệnh của Chúa Giê-xu khi giáng thế làm người: “Thần của Chúa ngự trên Ta, vì Ngài đã xức dầu cho Ta đặng truyền Tin Lành cho kẻ nghèo; Ngài đã sai Ta để rao cho kẻ cầm được tha, kẻ mù được sáng, kẻ bị hà hiếp được tự do, và để đồn ra năm lành của Chúa” (Phúc Âm Lu-ca 4:18-19). Sứ mệnh thiêng liêng đó được con dân Ngài tiếp nối thi hành trên mọi miền, mọi dân tộc, nhằm biến đổi thế giới nầy tươi đẹp hơn.

Tuesday, 2 August 2016

BI KỊCH CỦA CUỘC ĐỜI-THẦN THOẠI SISYPHUS

      BI KỊCH CỦA CUỘC ĐỜI - THẦN THOẠI SISYPHUS

 

        Sisyphus là một truyện thần thoại trong văn chương Hi-lạp. Chuyện kể rằng Sisyphus là một người khôn ngoan và hiểu biết nhất trong thế giới loài người. Nhưng ông bị án tử hình vì tội khinh mạng các vị thần.

        Trước khi chết, Sisyphus đã dại dột thử thách tình yêu của vợ. Ông yêu cầu nàng phơi xác của mình giữa quãng trường công cộng. Khi đến âm phủ, biết sự vâng lời của vợ vượt quá lẽ thường tình của một con người, ông giận dữ xin Diêm Vương cho mình được phép trở về sửa trị cô ta. Về dương thế, Sisyphus nhìn lại vẻ đẹp hùng vĩ, thơ mộng của trần gian, chàng ta thích thú quá nên lần lữa mãi, không chịu quay lại cõi âm ti, dù rất nhiều lần Diêm Vương hiệu triệu. Cuối cùng, âm phủ quyết định phải dùng đến bạo lực.

         Để trừng phạt kẻ ngoan cố, các vị thần bắt Sisyphus suốt đời vác một khối đá lên đầu ngọn núi. Khi vừa đến đỉnh, với sức nặng nghìn cân, tảng đá lăn xuống dưới chân núi, chàng ta lại phải trở xuống vác lên. Cứ như vậy mãi, ngày nầy sang ngày khác, không bao giờ thoát khỏi hình phạt.

        Huyền thoại Sisyphus diễn tả bi kịch của đời người. Dù có trí tuệ tuyệt đỉnh, con người chỉ sống bằng những tháng ngày lặp đi lặp lại cách vô nghĩa. Miệt mài làm việc để đạt điều mơ ước, khi buông ra, tất cả như lao xuống vực thẳm, rồi phải tiếp tục không ngừng xây dựng những đòi hỏi của cuộc đời, ngày nầy qua tháng nọ, đến lúc xuôi tay nhắm mắt cũng chưa hẳn cất bỏ được nỗi nhọc nhằn của kiếp nhân sinh. Bởi thế, trong thâm tâm con người nuôi một thắc mắc khôn nguôi: Sống để làm gì? Tại sao tôi phải hiện hữu trong cuộc đời vô nghĩa nầy? Phải chăng tôi sinh ra chỉ để mang kiếp đọa đày? Một số người tự kết liễu cuộc đời, người khác thì bám víu vào những hào nhoáng giả tạo vật chất, hư danh. Cũng có người tìm câu giải đáp ở niềm tin tôn giáo, triết học. Tất cả chỉ là trốn chạy, ép mình cho đến hết tháng ngày dương thế, thầm mong ước như nhà thơ Nguyễn Công Trứ từng thốt lên ‘Kiếp sau xin chớ làm người, làm cây thông đứng giữa trời mà reo’.

        Vậy cuối cùng con người có thể tìm nơi đâu niềm hi vọng cho cuộc đời? Ấy chính là sự yêu thương và lòng bao dung. Triết gia Albert Camus nói: “Có một điều mà ai ai cũng mong muốn, đó chính là tình yêu”. Tình yêu làm thăng hoa tháng ngày trần thế. Yêu và được yêu nâng cao giá trị của cuộc đời và là động lực nhiệm mầu để con người muốn sống dài lâu. ‘Tình yêu thương chẳng hề hư mất bao giờ’ (Thánh Kinh Cơ-đốc).

        






Friday, 29 July 2016

LỜI KHẤN NGUYỆN

Chúa Thánh hỡi xin cho con biến đổi
Trở thành người phụng sự giữa trần gian,
Hiến cuộc đời làm khí cụ bình an
Gieo thương mến trong mảnh vườn nhân loại.

Giữa oán thù, đấu tranh, giành danh lợi
Nơi tối tăm, thất vọng, chốn ưu sầu
Con sẽ mang ánh sáng Chúa nhiệm mầu
Chiếu rọi đến những mảnh đời tan vỡ.

Xin dạy con làm suối nguồn an ủi
Hơn mãi tìm thương cảm của tha nhân,
Tâm hồn nầy thấu hiểu nỗi thở than
Hơn đòi hỏi nơi người lòng độ lượng.

Vì con biết hiến dâng là thụ hưởng
Lúc quên mình sẽ gặp lại bản thân
Biết thứ tha, nhận tha thứ bội phần
Khi nhắm mắt là muôn đời bất diệt.


Lê Trần dịch bài thơ “Lời Cầu Nguyện” của thánh Francois, thế kỷ 13.

THIỀN SƯ VÀ TÊN TRỘM

Thiền sư Ryokan trở về sau một cuộc hành trình dài, mong sớm đến túp lều tranh bên sườn núi để nghỉ ngơi. Nhưng khi đến nơi, người nhìn thấy một tên trộm đang lục lọi bên trong chỗ ở của mình, dẫu rằng chẳng có gì để lấy cả. Đứng bên ngoài, thiền sư cởi chiếc áo dài đang mặc, chờ đợi.
Lúc quay ra, tên trộm hốt hoảng, nhưng thiền sư liền nói: “Anh bạn, đường sá xa xôi vất vả lên núi thăm tôi, không đành lòng để anh về tay không. Đêm khuya rồi, anh hãy khoác chiếc áo nầy cho đỡ lạnh”. Tên trộm cầm chiếc áo, xấu hổ, cúi đầu chạy xuống núi không dám nhìn lại.
Ryokan nhìn theo bóng dáng anh ta khuất dần trong núi rừng mờ mịt với lòng thương cảm. Người lắc đầu tự nhủ: “Rất tội nghiệp, ta muốn tặng cho anh cả vầng trăng để chiếu sáng con đường xuống núi”. Vài hôm sau, thiền sư dậy sớm ngắm mặt trời mọc bỗng nhìn thấy chiếc áo dài hôm trước được xếp lại ngay ngắn, đặt trên ghế. Ryokan vui vẻ nói: “Cuối cùng thì ta cũng đã tặng được cho anh cả vầng trăng sáng rồi!”.
La hét, đánh đập, chửi bới khi gặp trộm là phản ứng tự nhiên của mọi người. Làm chủ nội tâm, đối xử như khách quý, thiền sư Ryokan đã vượt lên trên lẽ thường tình của nhân loại. Vị tu sĩ cao thượng biết rằng muốn hoán cải một tội nhân trở nên người lương thiện chỉ bởi tấm lòng hào hiệp, độ lượng. Hơn nữa, cái đẹp huyền diệu và những giờ phút an bình nhìn ngắm trăng lên có giá trị ngàn lần hơn chiếc áo dài đang mặc. Rất tiếc làm sao ta có thể tặng được món quà quý giá đó? Suy cho cùng, ai cũng có thể sở hữu nét tuyệt mỹ của ánh trăng. Điều cần thiết là phải có một tâm hồn giác ngộ, thay đổi, vượt lên trên hệ lụy tầm thường thì mới có thể ngẩn đầu mở mắt mà thưởng ngoạn ánh sáng mầu nhiệm của chị Hằng.

Trong cuộc trò chuyện với giáo sư Ni-cô-đem, Chúa Giê-xu đã truyền dạy một lời khuyên vàng ngọc: “Ánh Sáng trời đã soi chiếu thế giới, nhưng người ta thích bóng tối hơn ánh sáng, không dám đến gần ánh sáng, vì sợ tội ác mình phát hiện. Ngược lại, người làm điều chân thật thích gần ánh sáng, vì ánh sáng phát hiện công việc tốt đẹp họ làm theo ý muốn Thượng Đế” (Giăng 3:19-21 BDY). Bạn đã tiếp nhận Ánh Sáng lạ lùng nầy chưa?

Wednesday, 27 July 2016

NHỚ VÀ QUÊN

Tu sĩ trẻ Minh Nguyện cùng sư phụ trên đường về sau chuyến thăm các thiền sư trên núi. Khi đến bờ suối, họ tình cờ gặp một cô gái đang ngồi khóc. Hỏi ra mới biết nhà của cô bên kia bờ, lúc sáng cô đi qua nước còn cạn, nhưng bây giờ quay về nước đã dâng cao, không thể lội qua được. Cô khổ sở, buồn bã, không biết làm sao về nhà trước khi trời tối.
Vị sư già nói với Minh Nguyện: “Con hãy cõng cô gái nầy qua suối đi, vì con khỏe mạnh hơn ta”. Nhưng Minh Nguyện trả lời: “Bạch thầy, làm như vậy sao được? Giới luật không cho phép chúng ta đụng chạm đến thân thể phụ nữ. Chúng ta là những người tu hành mà. Không được đâu!”.
Cuối cùng, sư phụ đành cõng cô gái qua suối. Đến bờ bên kia, sau khi tiễn cô gái về nhà, thầy trò lại tiếp tục hành trình. Hai người đi bên nhau, nhưng không ai nói một lời nào. Trên nét mặt của Minh Nguyện không dấu vẻ ưu tư, nghĩ ngợi. Về đến cổng chùa, không nín lặng nổi, Minh Nguyện chận tay thầy lại và nói: “Bạch thầy, thầy là người tu hành lâu năm, rành rẽ giới luật, sao thầy lại cõng một cô gái? Con không hiểu thấu”. Vị sư già nhìn đệ tử, ôn tồn nói: “Minh Nguyện à, ta nhớ rằng ta đã để cô gái ấy ở lại bờ suối rồi mà, sao con còn cõng cô ấy cho đến bây giờ?”.
Trong đời sống có những thứ cần nhặt lên đúng lúc và bỏ xuống đúng khi. Câu trả lời của vị thầy hàm chứa cả một nghệ thuật nhân sinh. Đời người khác nào một chặng đường dài, có lúc biết nhặt lên những kinh nghiệm để thêm vào hành trang, nhưng cũng biết vứt bỏ những gánh nặng phiền muộn để tâm hồn thanh thản. Như khi ta tức giận một người, không bỏ qua, chính là cứ mãi mang gánh nặng trong tâm hồn. Bởi vì tức giận là lấy sai lầm của người khác để trừng phạt chính mình. Nhớ những gì cần nhớ, quên những cái đáng quên, sống một đời cởi mở, trong lòng không vướng mắc, thì cuộc đời nầy sẽ tươi đẹp biết bao!

Sứ đồ Phao-lô dưới sự soi dẫn của Thánh Linh, đã khuyên: “Phải loại bỏ khỏi đời sống anh em những điều cay đắng, oán hờn, giận dữ, cãi cọ, phỉ báng và mọi điều xấu xa khác. Phải có lòng nhơn từ, yêu mến nhau, phải tha thứ nhau như Thượng Đế đã tha thứ anh em trong Chúa Cứu Thế” (Ê-phê-sô 4:31-32 BDY).

KINH THÁNH DẠY GÌ VỀ VIỆC UỐNG RƯỢU?

Khi mới định cư tại Úc, tôi có người bạn cũng là dân tị nạn, nhưng không may vợ con anh còn kẹt lại quê nhà. Anh thường uống rượu say mỗi tối. Tôi khuyên, anh trả lời bằng câu nói “Dục phá thành sầu duy hữu tửu” (chỉ có rượu mới phá được nỗi sầu). Ba năm sau, anh bảo lãnh vợ con đoàn tụ, gặp lại, vẫn sáng xỉn chiều say, hỏi sao bây giờ đã đoàn tụ rồi mà vẫn uống rượu? Anh trả lời bằng thơ “Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu, Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi”, nói: bây giờ gặp lại hồng nhan tri kỷ, vui quá nên nhậu. Sáu năm sau, vẫn say khướt, anh trả lời “Nam vô tửu như kỳ vô phong”, nghĩa là người đàn ông không uống rượu giống như cây cờ không có gió. Buồn nhậu, vui nhậu, không vui không buồn cũng nhậu!
Một phóng sự truyền hình năm 2013 cho biết trong một năm người Việt trong nước uống 3 tỉ lít rượu bia. Con số thật kinh khủng. Trung bình mỗi người dân, từ trẻ đến già, uống 32 lít một năm, số một Đông Nam Á.
Kinh Thánh dạy thế nào về việc uống rượu?
Tôi phải nói ngay rằng đọc toàn bộ Kinh Thánh, không có chỗ nào cấm người tín đồ uống rượu! Nghe thế hẳn mấy đệ tử của lưu linh rất vui.  Kinh Thánh còn hàm ý rượu là một món quà từ Chúa (Thi 104:15) và rượu nho sản xuất cây nhà lá vườn là một dấu hiệu của sự chúc phước (Châm 3:10, A-mốt 9:14). Rượu cũng là một thành phần trong của lễ dâng hiến (Dân 28:14) và được phép dùng trong những bữa ăn trước sự hiện diện của Chúa và gia đình (Phuc 14:26).
Tuy nhiên, Cựu Ước rất nhiều lần cảnh cáo việc lạm dụng rượu và khuyên dân sự nên tránh xa thức uống gây phiền nhiễu nầy (Phục 29:6, Châm 20:1, Ê-sai 5:11, 22; 28:7, Mi-chê 2:11). Cựu Ước cũng ghi lại một vài câu chuyện nói lên hậu quả đáng tiếc của người say xỉn, như Nô-ê (Sáng 9:20-25) hay trường hợp loạn luân của Lót (Sáng 19:32-35). Vua Sa-lô-môn nhắc nhở rằng rượu dẫn người ta đến bạo lực (Châm 4:17), hỗn hào (Châm 20:1) và là nguyên nhân của sự nghèo đói (Châm 21:17).
Trong Cựu Ước có ba hạng người không được phép uống rượu. Thứ nhất, các thầy tế lễ không được uống rượu khi đang thi hành nhiệm vụ trong hội mạc, ai vi phạm sẽ chết (Lê 10:9). Thứ hai, vua không được uống rượu khi đang phân xử cho thần dân nghèo khổ (Châm 31:4-5). Và thứ ba, người Na-xi-rê, là người được biệt riêng ra cho Chúa, họ không được uống bất kỳ vật gì gây say, thậm chí không được ăn nho tươi hay nho khô (Dân 6).
Chúa Giê-xu trong thời kỳ Tân Ước đã thực hiện phép lạ đầu tiên là hóa nước thành rượu. Dù giải thích cách nào chăng nữa chúng ta cũng phải nhận rằng Chúa của chúng ta không cấm đoán môn đồ Ngài dùng rượu. Để trả lời thắc mắc tại sao đệ tử của Giăng Báp-tít chọn lối sống khắc khổ của người Na-xi-rê, hoàn toàn kiêng rượu, trong khi môn đồ của Ngài thì tự do ăn uống. Chúa Giê-xu đã trả lời: “Bạn hữu của chàng rể có kiêng ăn được trong khi chàng rể còn ở cùng mình chăng? Hễ chàng rể còn ở với họ chừng nào, thì họ không thể kiêng ăn được chừng nấy” (Mác 2:19). Trong bữa tiệc cuối cùng trước khi chết trên thập tự, Chúa đã dùng rượu để ban cho các môn đệ qua lễ Tiệc Thánh của Ngài.
Sứ đồ Phao-lô nhiều lần cảnh cáo tín đồ về việc say rượu và nghiện rượu (Rô 13:13, Ê-phê-sô 5:18, I Cô 5:11). Ông cũng đưa những kẻ sáng xỉn chiều say vào trong danh sách của những người “chẳng hưởng nước Đức Chúa Trời” (I Cô 6:10). Trong khi nhắn nhủ những lãnh đạo Hội Thánh cần phải tiết độ trong việc ăn nhậu (I Ti 3:3,8; Tít 2:3), nhà truyền giáo lại khuyên một vị mục sư trẻ tuổi tên Ti-mô-thê uống một chút rượu mỗi bữa ăn để giúp cho việc tiêu hóa, vì mục sư nầy hay đau yếu (I Ti 5:23).
Như thế, rõ ràng rằng “say rượu, nghiện rượu” là tội lỗi theo quan điểm của Kinh Thánh. Tuy nhiên Lời Chúa không khẳng định Cơ-đốc nhân có được phép hay không được phép uống rượu. Ngày nay, giữa các giáo hội cũng có quan điểm khác nhau, như Công giáo, Anh quốc giáo, Lutheran cho phép tín đồ và cả cấp lãnh đạo được uống rượu, trong khi những giáo phái khác như Báp-tít, CMA, Church of Christ thì có vẻ cấm đoán. Có người cho rằng tín đồ của Chúa có thể dùng rượu ở mức độ vừa phải. Có người lại chọn lối sống kiêng cử hoàn toàn. Điều đó thực ra là tùy thuộc vào lương tâm của mỗi người.
Cuối cùng, trước những vấn đề trong cuộc đời tin kính tùy thuộc vào lương tâm của từng người, xem xét những đoạn như Rô-ma 14 và I Cô-rinh-tô đoạn 8 đến 10, Kinh Thánh dạy chúng ta hai nguyên tắc cần nhớ:
Nguyên tắc thứ nhất, “Anh em hoặc ăn, hoặc uống, hay làm sự chi khác, hãy vì sự vinh hiển của Đức Chúa Trời mà làm” (I Cô 10:31). Tất cả là “vì Chúa”, vì sự vinh hiển của Ngài. Như thế chúng ta phải tôn trong quyết định của người khác trong việc uống hay không uống, không lên án nhau, không cãi lẫy với nhau (Rô 14:1-4).
 Nguyên tắc thứ hai, “Nhưng hãy giữ lấy, kẻo tự do mình làm dịp cho kẻ yếu đuối vấp phạm” (I Cô 8:9-13). Trước những người mới tin còn yếu đuối, nhạy cảm, một ly rượu không sao, nhưng nếu chúng ta uống đến quên đường về, thì chắc đã làm cho niềm tin của họ bị lung lay.

Nguyện Chúa hướng dẫn mỗi chúng ta theo ý chỉ tốt lành của Ngài. A-men!

Tuesday, 19 July 2016

CÂU CHUYỆN CỦA THIỀN SƯ WON HYO

Cách nay 1300 năm, có một nhà sư người Đại Hàn tên Won Hyo. Khi còn thanh niên, ông là lính trong cuộc nội chiến đẫm máu tại quê hương. Chứng kiến bạo tàn của chiến tranh, thân nhân bị tàn sát, ông cảm nhận lẽ vô thường của kiếp người, quyết tâm lên núi ẩn tu. Dù nghiên cứu hàng ngàn sách vở, Won Hyo vẫn không toại nguyện. Ông nghĩ rằng chỉ ở tại Trung Hoa may ra mới tìm thấy sự giác ngộ thật sự, bèn khăn gói lên đường.
Với túi hành lý trên vai, ngày đi đêm nghỉ, hướng về đất Bắc, hi vọng khôn nguôi. Một hôm băng ngang sa mạc khô cằn, mệt mỏi, đói khát rã rời, vị thiền sư vào trong hang động trú ẩn. Lúc nửa đêm, ông thức dậy, kiệt sức, mò mẩm tìm nước uống. Thình lình giữa bóng tối tay ông chạm vào một cái bát, một cái bát đầy nước. Không nỗi vui mừng nào hơn. Trong cơn tuyệt vọng, nhà sư đã uống cạn cái bát nước. Ngọt lịm làm sao! Ông cảm tạ bề trên cứu mình giữa cơn bi đát nhất của cuộc đời.
Sáng hôm sau, Won Hyo thức dậy mới khám phá rằng hang động đó là một nghĩa trang. Người ta đang bốc mộ. Cái bát đựng nước đêm qua thật ra là chiếc sọ người bị vỡ, trên đó còn dính đầy máu với những con sâu gớm ghiếc bò xung quanh. Ông buồn nôn dữ dội. Và ngay khi há miệng cho cơn ói mửa trào ra, tâm hồn ông bỗng dưng giác ngộ. Đôi mắt vị thiền sư sáng lên, cái nhìn của ông đối với sự vật phút chốc thay đổi. Ông ngộ ra rằng: điều quan trọng không phải là sự vật, mà chính là cái nhìn của ta đối với sự vật. Không phải chỉ là sự hiểu biết của trí tuệ, mà là một cuộc hoán cải nội tâm, một sự thay đổi tận đáy lòng. Đêm qua không thấy, không suy nghĩ, bát nước ấy thật kỳ diệu. Bây giờ vì trí óc nghĩ ngợi, cũng bát nước ấy mà ghê tởm, nôn mửa. Won Hyo không đi Trung Hoa nữa, ông trở lại Đại Hàn vì tìm được câu giải đáp cho những khắc khoải của cuộc đời.

Trong cuộc trò chuyện với giáo sư Ni-cô-đem, Chúa Giê-xu phán dạy: “Ngươi phải sanh lại!”. Ngài kiên nhẫn giải thích cho vị học giả đầy nghi hoặc rằng: “Nếu không tái sanh, thì không thấy được vương quốc vinh quang của Thiên Chúa”. Cùng một con người ấy, dù là địa vị cao sang, tri thức, đạo hạnh, nhưng chưa được Chúa biến đổi, thì vẫn còn ở trong bóng tối vô tri. Cho đến khi quyền phép của Ngài chạm đến tâm hồn, nhận thức được chính mình và nhìn thấy thiên đàng phước hạnh. “Nhưng hễ ai đã nhận Ngài, thì Ngài ban cho quyền phép, để trở nên con cái của Đức Chúa Trời” (Giăng 1:12). Bạn đã trải nghiệm điều nầy chưa?

CHIẾC GƯƠNG THẦN

Karma Udi là một tu sĩ nhiệt thành với niềm tin tôn giáo. Thuở thanh xuân ông đã phát nguyện quyết tâm lên núi tầm sư học đạo. Sau nhiều năm khổ luyện, tự thấy mình đã đầy đủ bản lĩnh, thấu hiểu lòng người, bèn xin thầy cho phép hạ san. Dù biết tâm thức còn non trẻ của đệ tử, sư phụ cũng miễn cưỡng nhận lời. Ngày từ giã, vị tăng già tặng cho thiền sư một chiếc gương thần, có thể soi thấu tâm can của người đối diện.
Đi ròng rã mấy ngày trời, hôm nọ Karma Udi gặp một triết gia mặt mày sáng láng đang hùng biện về học thuyết huyền nhiệm. Dân chúng say mê theo dõi, rót vào tai những lời châu ngọc. Thiền sư Udi dừng lại rất lâu để lắng nghe. Nhưng để chắc chắn về tư cách của triết gia, ông lấy chiếc gương thần soi vào xem thử. Bất ngờ, trên gương hiện lên một con quỷ dữ tợn với răng nanh mã tấu. Thiền sư khám phá rằng dù bề ngoài rất đạo mạo, uyên thâm, nhưng thật ra triết gia kia chỉ là một kẻ giả nhân giả nghĩa. Từ đó, hễ cứ gặp ai, Karma Udi cũng giơ chiếc gương ra, và chỉ thấy toàn sói đội lốt chiên.
Cuối cùng ông mừng rỡ gặp một nhà tu hành hiền hòa, đức cao trọng vọng, thường dạy dỗ chúng sinh con đường giải thoát. Nhưng khi đến gần, soi gương thần, người thầy khả kính kia cũng hiện hình là một con cọp hung ác mang hình hài của một vị chân tu. Quá thất vọng, thiền sư trẻ quyết định trở về với cõi thần tiên yên tĩnh cùng sư phụ trên núi.
Đang lúc ngồi nghỉ bên bờ suối, Karma Udi tò mò lấy chiếc gương ra, rọi vào chính mình. Bỗng dưng mặt mày tái mét, run rẩy sợ hãi, vì trên mặt gương hiện ra một con ác quỷ gian ác, kinh tởm, ghê sợ hơn hết mà ông từng thấy. Từ trước đến nay ông mãi soi gương vào người khác, mà không rọi vào chính mình!

“Các ngươi đừng đoán xét ai, để mình khỏi bị đoán xét. Sao ngươi dòm thấy cái rác trong mắt anh em ngươi, mà chẳng thấy cây đà trong mắt mình. Hỡi kẻ giả hình! Trước hết phải lấy cây đà khỏi mắt mình, rồi mới thấy rõ mà lấy cái rác khỏi mắt anh em mình được”. Lời của Chúa Cứu Thế Giê-xu, chép trong phúc âm Ma-thi-ơ 7:1-5.



Wednesday, 13 July 2016

LỢI ÍCH CỦA MÙA ĐÔNG

Mùa Đông đến cho đời thêm băng giá,
Những hàng cây trở gió thấy lạnh lùng.
Buổi chiều về mái tóc đẫm mưa giông,
Đời lữ thứ miên man nhìn mây rớt.

Mùa Đông đến, nhiều người không vui. Ai cũng ước ao những ngày nắng ấm và thầm trách Đấng Tạo Hóa tạo ra chi mấy tháng giá rét làm xót xa nhân loại? Nhưng nếu biết sự hữu ích của ba tháng lạnh, Bạn sẽ vui vẻ đón chào mỗi lúc Đông sang.

Trong cơ thể con người có hai loại mỡ mà ta gọi là “chất béo nâu” và “chất béo trắng”. Khi được kích hoạt, chất mỡ nâu sẽ đốt cháy chất mỡ trắng, làm cơ thể thon gọn, khỏe mạnh mà không cần đến thể dục hay ăn kiêng. Thời tiết lạnh chính là sự kích hoạt hữu ích đó. Bạn có để ý thấy mình thon thả hơn sau ba tháng mùa Đông?

Thời tiết lạnh giúp con người gần gũi nhau hơn. Lúc ấy ta thích cuộn mình trong chăn ấm, trò chuyện rất lâu trên điện thoại với người thân và bạn hữu. Nhất là vợ chồng, thay vì “đâu lưng”, cả hai sẽ có ý muốn tìm đến nhau, xích lại gần nhau.

Có một số loài côn trùng sinh sôi rất mạnh trong khí hậu ấm áp, gây bịnh tật cho con người. Nhà khoa học cho biết nhờ khí hậu lạnh giá của mùa Đông giết chết một số loài sâu bọ có hại, giúp ích cho sức khỏe nhân loại. Y học khám phá ở nhiệt độ rất thấp của mùa Đông mà cơ thể con người giảm bớt một số chứng đau đớn, viêm nhiễm.

Chuyên gia tâm lý còn dẫn đến kết luận rằng thời tiết ấm áp suốt mười hai tháng có vẻ dễ chịu nhưng thực sự không làm cho ta hạnh phúc. Chính bởi sự run rẩy trong những ngày lạnh giá rồi sau đó tận hưởng mùa Xuân nồng ấm có ảnh hưởng tốt cho tinh thần hơn là chỉ một kiểu thời tiết quanh năm.

“Tôi cảm tạ Chúa, vì tôi được dựng nên cách đáng sợ lạ lùng. Công việc Chúa thật lạ lùng, lòng tôi biết rõ lắm!” (Thi Thiên 139:14).