Wednesday, 19 December 2018

EM-MA-NU-ÊN


Trước những cảnh ngộ đau buồn của đời sống, hay lúc bịn rịn chia tay người thân, bạn hữu, người tin Chúa có thể nói một câu đơn giản nhưng đầy ý nghĩa: “Nguyện Em-ma-nu-ên”. Đây là một lời chúc tốt lành, cũng là một câu khẩn nguyện dành cho nhau. Ý nghĩa của câu nầy là “Cầu xin Đức Chúa Trời ở cùng chúng ta”.
Em-ma-nu-ên (Emmanuel hay Immanuel) là một từ ngữ rất đẹp trong ngôn ngữ Do-thái. Nó được ghép bằng hai chữ: EL nghĩa là Đức Chúa Trời, và IMMU nghĩa là “với chúng ta”. Khi ghép hai chữ nầy với nhau nó mang một hình ảnh quý báu giữa Trời với người. Thiên Chúa ở với loài người!
Chữ Em-ma-nu-ên chỉ xuất hiện ba lần trong Thánh Kinh: hai lần trong Cựu Ước (Ê-sai 7:14 và Ê-sai 8:8) và duy nhất một lần trong Tân Ước (Ma-thi-ơ 1:23), nhưng ý niệm về Thiên Chúa ở cùng dân sự Ngài bàng bạc suốt dòng lịch sử. Bất cứ lúc nào hình ảnh Đức Chúa Trời đứng về phía con dân Ngài cũng mang theo sức mạnh, quyền năng và sự chiến thắng.
Vua Đa-vít tâm sự: “Dầu khi tôi đi trong trũng bóng chết, tôi sẽ chẳng sợ tai họa nào, vì Chúa ở cùng tôi”. Có một lần đất nước Giu-đa bị cường quốc A-sy-ri tấn công như vũ bão. Lòng dân tan chảy, sợ hãi. Vua Ê-xê-chia khích lệ đồng bào mình rằng hãy can đảm lên, vì “có một Đấng ở cùng chúng ta”. Trong niềm tin vững mạnh đó Ê-xê-chia phủ phục dưới chân Chúa, trình dâng hoàn cảnh bi thương của đất nước, xin Ngài giải cứu. Kết quả: 185.000 chiến binh dũng mãnh của đế quốc A-sy-ri bị hủy diệt hoàn toàn. (II Sử-ký 32:7-8).
Năm thế kỷ trước khi Chúa Giê-xu giáng thế, tiên tri Ê-sai dự ngôn: “Nầy một trinh nữ sẽ chịu thai, sinh ra một trai, và đặt tên là Em-ma-nu-ên” (Ê-sai 7:14). Sứ đồ Ma-thi-ơ nhắc lại danh hiệu đó bằng một hình ảnh sống động khi viết sự tích Giáng Sinh của Chúa Giê-xu. Ý nghĩa Đức Chúa Trời ở cùng chúng ta đã thể hiện trọn vẹn khi Ngài nhập thế, sống giữa loài người.
“Ta hằng ở cùng các con cho đến tận thế” là lời hứa vĩnh cữu mà Ngài đã để lại (Ma-thi-ơ 28:20).
Sứ đồ Phao-lô minh xác “Nếu Đức Chúa Trời ở cùng chúng ta, thì còn ai nghịch với chúng ta?” (Rô-ma 8:31).
Hãy dành cho nhau lời chúc “NGUYỆN EM-MA-NU-ÊN”!




MỐI TƯƠNG GIAO MẦU NHIỆM


Trong xã hội hiện nay, người ta thường lên án “cá nhân chủ nghĩa”. Ai cũng biết người theo chủ nghĩa nầy có lối sống ích kỷ, chỉ biết lo cho bản thân mình, gia đình mình, còn người xung quanh thì mặc kệ. Cuộc sống của người theo chủ nghĩa cá nhân thu hẹp trong phạm vi rất nhỏ, rất giới hạn và từ đó phát sinh ra tâm lý cô đơn, kỳ thị, mặc cảm tự tôn.
Có người cho rằng não trạng cá nhân chủ nghĩa của người Mỹ phát xuất từ Đạo Tin Lành. Họ nói rằng Đạo Tin Lành khuyến khích người ta làm việc cật lực để chứng tỏ giá trị của mình. Bởi ảnh hưởng đó, một số nhà tư tưởng xiển dương xu hướng rằng mỗi cá nhân cần phải tìm ra con đường riêng của mình, cần phải mạnh dạn nói lên tiếng nói riêng tư mà không cần phải sợ hãi. Triết gia người Mỹ Emerson hô hào: ‘Hãy là chính mình, không ai tốt đẹp hơn cho bằng chính bạn’. Họ luôn thấy mình vĩ đại và cố gắng hết sức để giữ gìn sự vĩ đại của mình.
Nhưng một nhà tư tưởng người Mỹ khác là tiến sĩ Emma Seppala thì cho rằng chính niềm tự hào về sự vĩ đại ấy là yếu tố phát sinh cuộc khủng hoảng cô đơn trong xã hội Hoa Kỳ. Người ta quên mất rằng đằng sau nhu cầu ăn mặc, giàu có sung túc lại còn một nhu cầu lớn hơn, đó là mối liên hệ với người khác và nhất là đối với Thiên Chúa. Bởi vì nếu chúng ta chỉ chú tâm vào việc làm và sự thành công, cứ mãi cạnh tranh nổi trội hơn người khác, chúng ta rất dễ rơi vào trạng thái bị cô lập, xa cách với tha nhân, để rồi cuối cùng tìm an ủi trong rượu chè, phim ảnh hay ma túy.
Tôi không biết có phải vì ảnh hưởng của Đạo Tin Lành mà người Tây Phương sùng bái cá nhân chủ nghĩa hay chăng, nhưng tôi biết rất rõ rằng Cứu Chúa Giê-xu của tôi luôn dạy dỗ con dân Ngài sống trong mối tương giao mầu nhiệm với Thiên Chúa và với người xung quanh. Trong đêm Ngài giáng thế, thiên binh từ trời đã trổi lên khúc thần ca: “Sáng Danh Chúa trên các từng trời rất cao; Bình an dưới thế, Ân sủng cho loài người’. Rồi sau đó, suốt hành trình trên đất, Ngài luôn nhấn mạnh đến mối liên đới giữa người Trời với và giữa người với nhau. Ngài dạy rằng: “Nếu các con muốn người khác làm cho mình thể nào, thì hãy làm điều đó cho họ”. Ai cũng muốn mình được yêu quý, tôn trọng, an toàn và hạnh phúc. Thế thì đem những điều đó chia xẻ với người xung quanh chính là tạo nhịp cầu thân ái, tạo mối tương giao tương kính lẫn nhau. Đó chẳng phải là đức bác ái trong Đạo Cơ-đốc sao?

Tuesday, 27 November 2018

ĐỔI TUỔI


Ông Emile Ratelband, người Hòa Lan, năm nay 69 tuổi, có 7 người con và nhiều cháu nội cháu ngoại, nhưng ông cảm thấy mình còn rất trẻ nên ông làm đơn xin chính phủ cho đổi năm sinh từ 69 tuổi xuống còn 49 tuổi.
Ông Ratelband lý luận rằng hiện nay ở Hòa Lan cũng như nhiều nước trên thế giới người dân được quyền thay đổi tên họ, giới tính và nhiều chi tiết cá nhân, thì việc ông muốn đổi tuổi cũng không phải là quá đáng. Ông nói với các nhà báo: “Tôi muốn tự kiểm soát cuộc đời mình và muốn tránh tình trạng bị kỳ thị tuổi tác, nhất là khi tôi định hẹn hò với phụ nữ. Thí dụ như khi tôi nộp đơn vay tiền mua nhà, ngân hàng từ chối vì thấy tôi quá già. Nếu tôi vào trang mạng làm quen với bạn gái, họ chỉ giới thiệu những bà trên 60 tuổi. Nhưng tôi thấy mình còn trẻ quá mà”.
Theo ông, chính phủ Hòa Lan sẽ hưởng lợi nếu chấp thuận đơn xin giảm tuổi của người dân. Thí dụ: họ sẽ chẳng phải trả tiền trợ cấp hưu trí mỗi tháng $1300 cho ông, như thế sẽ tiết kiệm nhiều cho công quỹ. Ông nói: “Tôi nay bị coi như người già, nhưng nếu cho trở lại tuổi 49, tôi sẽ lấy lại niềm hi vọng của mình. Tôi sẽ tìm lại thời thanh xuân, cả tương lai tốt đẹp sẽ chờ đợi tôi và tôi không cần phải nói dối về tuồi tác của mình nữa”. Yêu cầu của ông Ratelband thành công, chắc hẳn sẽ có nườm nượp người nộp đơn xin giảm tuổi để mình trẻ mãi!
Bạn biết trong Thánh Kinh cũng có một người mang tâm trạng đó? Một cụ già 85 tuổi mà thấy mình như trai tráng 40. Cụ già nầy lấy sức mạnh trẻ trung đó để chiến đấu cho sự tồn vong của dân tộc. Mời Bạn nghe câu nói hào hùng của cụ: “Ngày nay tôi được 85 tuổi, nhưng tôi vẫn còn mạnh khỏe như 45 năm trước, khi Môi-se sai tôi đi; tôi vẫn còn sức mà tôi có hồi đó, đặng đi đánh giặc hoặc vào ra”. (Giô-suê 14:10-12). Cụ già đó tên là Ca-lép, vị anh hùng dân tộc Do-thái.
Thì ra tuổi tác không phải là một trở ngại cho người thật tâm muốn phụng sự Chúa.


Wednesday, 7 November 2018

TRÁI TIM CỦA MỘT NỮ THÁNH


TÂM TÌNH CỦA MỘT NỮ MỤC SƯ

Hôm nay đọc lại bài “Nhức Nhối Con Tim” của nhà văn tị nạn Tràm Cà Mau đăng trên Thư Viện Hoa Sen mà thấy mình nhỏ bé, tầm thường trước tấm chân tình rất thật, rất bình dị, gần gủi mà cao thượng, để lại một ấn tượng sâu đậm đến nỗi không biết đến bao giờ mình mới có thể bắt chước được?

Tác giả kể lại chuyện mình vào bệnh viện giải phẩu tim. Những ngày trước khi lên giường mổ, bà vợ ép ăn thật nhiều để đủ sức khỏe cho qua cuộc giải phẩu. Nhưng rồi sau khi mổ xong, lại bị bón, đến nỗi ruột già căng cứng như muốn nổ ra. Y tá cho uống thuốc xổ, nước trái mận đen, và dùng đủ thủ thuật mà vẫn không thể đi tiêu. Đau đớn, khó chịu, đến nỗi tác giả tưởng rằng mình sẽ không chết vì bịnh tim mà chết vì vỡ ruột già. Thiếp được vài phút, rồi lại thức dậy, gần như mê sảng, tinh thần suy sụp nặng nề.

Lúc nửa đêm, hé mắt ra thấy một bà y tá người da đen. Ngọn đèn phía sau làm thành một vòng hào quang trên đầu bà. Ông vốn không tin theo một tôn giáo nào mà cũng chẳng tin vào thần thánh, nhưng buột miệng thều thào “Có phải bà là thiên thần mà Thượng Đế gửi xuống giúp tôi không?”. Bà cười nhẹ, đặt tay lên trán và hỏi có điều gì cần giúp đỡ? Tác giả kể lại chuyện mình bị bón kinh khủng, ruột già sắp bị nổ tung. Bà cho thuốc vào hậu môn, nhưng không kết quả. Tràm Cà Mau viết: ‘Bà bảo tôi nằm nghiêng, co chân, và trải nhiều khăn ra giường, quấn nhiều khăn làm vòng đai. Rồi bà đưa ngón tay vào hậu môn của tôi, móc phân ra từ từ, từng chút một. Cẩn thận, nhẹ nhàng. Khi phần cứng của phân moi ra hết, thì phần bên trong chảy phọt ra. Tôi thấy người nhẹ như bay bổng lên không trung, tưởng chừng trên vai mọc cánh, đang lượn giữa trời. Khỏe hẳn. Bà y tá dọn giường, và cho tôi viên thuốc ngủ. Tôi cảm ơn bà. Nụ cười trên môi bà hiền từ làm tôi liên tưởng đến những bức tượng Quan Thế Âm Bồ Tát. Tôi nắm lấy tay bà và nói lời cảm ơn’. 

Xúc động vì tấm lòng của người y tá, tác giả làm một bài thơ đề tựa “Belinda” là tên của bà. Hôm sau, đưa cho bà xem. Ông kể tiếp: ‘Đọc xong bài thơ, bà cảm động, ôm tôi mà khóc. Bà nói riêng cho tôi biết, bà là nữ Mục Sư đang điều hành một nhà thờ Tin Lành trong thành phố nầy. Tôi thấy bà có Trái Tim của một Nữ Thánh’”.

Yêu người như thế cao đẹp là dường bao. Mấy ai làm được nhỉ? Đọc chuyện thật nầy bỗng dưng câu Thánh Kinh I Cô-rinh-tô 13:2 như chiếu rọi vào tâm khảm: “Dù tôi có tài giảng thuyết hùng hồn, hiểu biết mọi huyền nhiệm, hay quán thông mọi ngành tri thức; dù tôi có đức tin di chuyển cả đồi núi, nhưng thiếu tình yêu, tôi vẫn là một con người vô dụng”.

Lê Trần - 2020




Friday, 26 October 2018

CHÂN DUNG MỘT LÃNH TỤ


Kin Jong-un là chủ tịch nhà nước cộng sản Bắc Hàn. Ông sinh ngày 8 tháng 1 năm 1984 (năm nay 34 tuổi). Ông được báo chí trong nước ca tụng là lãnh đạo đẳng cấp thế giới, có chỉ số thông minh (IQ) cao nhất, có năng lực mạnh nhất.
Tương truyền rằng khi vừa lọt lòng mẹ, ông đã biết nói rành rẽ, năm 3 tuổi biết chơi bóng rổ, 5 tuổi đã biết xử dụng nhiều loại vũ khí, 6 tuổi lái được xe tăng, 9 tuổi đã tinh thông âm nhạc, 11 tuổi biết lái máy bay, 12 tuổi nắm vững tất cả kiến thức của loài người, 13 tuổi biết nói tiếng Anh Đức Pháp, 16 tuổi rành rẽ thuật thống trị đất nước, 17 tuổi hiểu rõ luân lý làm người, 18 tuổi thành thạo triết học cổ xưa, 21 tuổi tinh thông chân lý vũ trụ, 22 tuổi thuộc làu binh pháp, 23 tuổi bắt đầu tham gia chính trị, 26 tuổi được xác định người kế thừa lãnh đạo Bắc Triều Tiên, 27 tuổi thành đại tướng, 29 tuổi lên ngôi và 34 tuổi là “cha ruột toàn dân Bắc Hàn”. Họ có một bài ca tụng, trong đó có câu: ‘Vì tình yêu quá mãnh liệt, xin gọi ngài là cha! Tin rằng trong vòng tay ngài, chúng ta mới có thể sống còn’.
Bây giờ xin mời Bạn xem hình ảnh của một vị lãnh đạo khác. Vị lãnh đạo nầy đã làm thay đổi hàng tỉ người trên thế giới qua mọi thời đại. Ngài biến tội nhân thành thánh nhân, dẫn đường cho những kẻ lạc lối trở về cùng Đấng Chí Cao. Ngài là Chúa Cứu Thế Giê-xu. Thánh Kinh mô tả Ngài như sau:
“Trước mặt Đấng Tạo Hóa, Ngài lớn lên như cây non nứt lôc, từ gốc rễ mọc trong lòng đất khô hạn; Ngài chẳng có thân hình đẹp đẽ. Loài người nhìn ngắm, thấy Ngài không có gì hấp dẫn. Ngài bị loài người khinh dễ, khước từ; Ngài là con người đau đớn, quen chịu sầu khổ. Loài người thấy Ngài liền ngoảnh mặt, bỉu môi, không thèm đếm xỉa. Tuy nhiên, Ngài đã gánh nỗi buồn bực và chịu cảnh đau thương thay cho chúng ta” (Ê-sai 53:2-4).
Giữa hai vị lãnh đạo nầy, Bạn sẽ chọn ai làm Đấng Cứu Rỗi cho cuộc đời mình?

Wednesday, 17 October 2018

TÔI KHÔNG CÓ KẺ THÙ


Một trong những khôi nguyên giải Nobel Hòa Bình lừng danh trong thời đại chúng ta là nhà văn Trung Hoa Lưu Hiểu Ba (sinh 1955, chết 2017). Ông đã được xướng danh khi còn nằm gai nếm mật ở trong tù. Ngày trao giải ông không được nhà cầm quyền cho phép đến dự. Chiếc ghế ông ngồi để trống. Ông đã vĩnh viễn ra đi khi còn ở trong ngục tối.
Hôm 13 tháng 7, 2018 người ta kỷ niệm một năm ngày ông qua đời, Nhân dịp nầy ở Đài Loan bà Aihua Cheng đã trưng bày một tác phẩm điêu khắc nhà văn Lưu Hiểu Ba, bên cạnh có một chiếc ghế trống để gợi nhớ sự kiện ông không được phép đến Na-uy nhận giải. Nhưng điều mọi người chú ý là trên chiếc ghế đó, nhà điêu khắc đã để một cánh hoa hồng với dòng chữ ‘Tôi không có kẻ thù’. Lời nầy trích trong diễn văn nhận giải ông gửi ra ngoại quốc, cũng là nhân cách cao thượng của người tù lương tâm thế kỷ nầy.
Lưu Hiểu Ba luôn sống trong tâm tình biết ơn, và dù có bị đàn áp cho đến chết ông vẫn một mực tuyên bố mình không có kẻ thù, không nuôi dưỡng thù hận. Trong bài diễn văn đầy xúc cảm đó ông viết: ‘Hận thù có thể làm thối rửa trí khôn và lương tâm con người. Não trạng thù hận sẽ đầu độc tinh thần của một dân tộc, kích động những cuộc chiến dã man, gây chết chóc, tiêu hủy tình người cũng như ngăn chận dân tộc tiến tới tự do, dân chủ. Chính vì vậy mà tôi hi vọng sẽ vượt qua những gian khổ của mình, lấy thiện chí cao độ đối lại sự thù nghịch và lấy tình thương đẩy lui thù hận’. Ông chưa nhìn thấy những thành quả suốt đời tận tụy hi sinh, nhưng tinh thần nhân ái đó luôn ngời sáng cho nhiều thế hệ mai sau.
Ganh ghét, thù hận là bản tính ma quỷ gieo rắc trong mỗi con người. Chúng ta kèn cựa lẫn nhau, xâu xé nhau từ gia đình ra đến xã hội, từ trong nước ra đến cộng đồng thế giới. Người ta nhân danh lý tưởng để gây máu đổ thịt rơi, nhưng thật ra chính là bởi lòng hận thù xui khiến. Trên môi miệng nói ‘tôi không có kẻ thù’ rất dễ, nhưng mỗi ngày sống với nhau bằng tình yêu, sự khoan dung, tha thứ không phải lúc nào cũng làm được.
Cầu xin Chúa ngự trị trọn vẹn trong đời sống chúng ta để có thể làm theo lời sứ đồ Phao-lô khuyên nhủ: “Hãy ở với nhau cách nhơn từ, đầy dẫy lòng thương xót, tha thứ nhau như Đức Chúa Trời đã tha thứ anh em trong Chúa Cứu Thế vậy” (Ê-phê-sô 4:32).





Wednesday, 10 October 2018

CON ẾCH THÀNH CÔNG


Đàn ếch tổ chức cuộc thi xem ai có thể leo lên tới đỉnh của một cái tháp. Khi trò chơi bắt đầu, đa số nhìn thấy chiều cao của ngọn tháp đều lắc đầu bàn luận với nhau: ‘Thật là quá khó. Chắc chắn chúng ta không làm được. Chúng ta chỉ là những con ếch nhỏ bé, làm sao leo lên tới đỉnh được chứ?’. Thế là nhiều con bỏ cuộc.
Cũng có một số ếch bạo gan cố gắng leo lên, những con ở dưới la ó: ‘Thật là quá khó. Không ai có thể làm điều điên rồ như vậy’. Cứ nghe lời nầy đến lời khác, càng ngày càng có nhiều con ếch bỏ cuộc. Cuối cùng duy nhất một con ếch leo lên đến đỉnh ngọn tháp cao vút. Tất cả đàn ếch đều kinh ngạc, bu quanh lấy vị anh hùng hỏi làm cách nào mà nó hay như vậy. Và họ khám phá ra bí quyết thắng cuộc của nó: đó là một con ếch bị điếc!
Biết bao lần chúng ta vì những câu phê bình, những lời nói tiêu cực của người khác làm ảnh hưởng, bỏ rơi những cố gắng hoặc ý hướng mà mình đang cố công thực hiện. Có những lúc cần phải bịt tai lại trước la ó của đám dông, bươn mình tới trong lý tưởng mà mình đã quyết tâm theo đuổi.
Môi-se tuân lệnh Thiên Chúa giải cứu dân Do-thái ra khỏi ách nô lệ ai cập 300 năm. Lẽ ra họ phải vui mừng thuận phục sự lãnh đạo của nhà cách mạng, nhưng suốt chiều dài 40 năm sa mạc, họ đã hết lần nầy đến lần khác chỉ trích, lằm bằm, có khi còn đòi ném đá để giết chết ông. Môi-se từng có lúc nản lòng, muốn buộng bỏ. Nhưng sức mạnh thiên thượng đã nâng đỡ, để ông nhắm đến đất hứa mà tiến bước.
Tác giả Hê-bơ-rơ nhìn lại những kinh nghiệm gai góc đó, buông ra một lời khuyên chân thành cho những ai thật tâm theo Chúa: “Hãy nhìn xem Chúa Giê-xu Christ là nguyên soái và thành toàn của đức tin” (12:2). Sứ đồ Phao-lô chia xẻ cùng một từng trải: “Ta cứ làm một điều: quên lửng sự ở đằng sau, mà bươn theo sự ở đằng trước, ta nhắm mục đích mà chạy để giựt giải về sự kêu gọi trên trời” (Phi-líp 3:14).
Hôm nay, nếu Bạn thấy những ai đang cố gắng theo Chúa, đang dốc lòng phụng sự Ngài, thì cố gắng giảm thiều những lời phê bình, chỉ trích, để họ có thể yên ổn theo đuổi con đường thập tự giá. Hãy khuyến khích, đừng chỉ trích. Vì biết đâu chính Bạn cũng muốn bịt tai lại, ngắm nhìn Đấng Lãnh Đạo mà bươn tới, hơn là mãi nghe theo lời ong tiếng ve của những kẻ làm tay sai cho ma quỷ gây nản lòng những anh chị em đang đổ hết năng lực vào cuộc đua thuộc linh của cuộc đời mình.

LỪA HAY NGỰA?


Năm 2018 sở thú International Garden (Khu vườn Quốc tế) ở thủ đô Cairo (Ai-cập) ế quá, ban giám đốc quyết định dùng độc chiêu để câu du khách. Họ sơn một con lừa thành con ngựa vằn rồi quảng cáo cho nhiều người đến xem. Nhưng điều nầy không qua mắt anh Mahmond Sarhan. Sau khi đến thăm sở thú ngày 21 tháng 7, anh nói có một ‘con vật kỳ lạ’ làm anh nghi ngờ. Đến gần anh ngửi thấy mùi sơn đen trên khuôn mặt và hai tai của nó nhỏ hơn tai của loài ngựa vằn mà anh thường thấy. Khi anh đưa những tấm hình nầy lên trang Facebook đã trở thành một cơn sốt. Anh viết: ‘Thật là một ngu xuẩn cho đất nước nầy khi họ mua một con lừa rồi mang về sơn lên để giống một con ngựa vằn’.
Thế nhưng, giám đốc của sở thú nhất quyết đây là một con ngựa vằn thật chứ không phải sơn lên. Ông còn mạnh miệng nói rằng thú vật ở đây đều được chăm sóc cẩn thận, thường xuyên khám bệnh để bảo đảm khỏe mạnh. Tuy nhiên, sau khi xem các hình ảnh, lãnh đạo tổ chức bảo vệ súc vật không đồng ý với những lời biện minh của vị giám đốc sở thú. Bà Delcianna Winders của cơ quan bảo vệ súc vật cho biết: ‘Không một sở thú tiếng tăm nào lại đi đối xử với con lừa như vậy. Họ sơn hóa chất lên người nó, có thể làm cho con lừa bị dị ứng da. Chúng tôi hi vọng giới chức cầm quyền phải điều tra toàn bộ sự việc nầy’.
Đây không phải lần đầu tiên một sở thú đánh lừa thị hiếu của du khách. Vào năm 2013, một sở thú ở Trung quốc đã làm người đến xem nổi giận vì họ đã dùng một con chó lông xù lớn và ‘trang điểm’ cho nó thành một con sư tử. Chẳng may, khi thấy đám đông, con ‘sư tử’ bắt đầu sủa inh ỏi, ai nấy đều chưng hửng.
Thật ra trong đời sống hằng ngày, chúng ta cũng thường hay làm như vậy. Chúng ta tự “sơn” chính mình bằng những màu sắc nhằm đạt được điều mong muốn. Đi xin việc thì sơn thành một người siêng năng, cần mẫn. Lúc tán tỉnh một cô gái thì sơn thành một thanh niên hào hoa, phong nhã. Ở nhà ăn to nói lớn nhưng khi ra đường hóa thành một thiếu nữ thẹn thùng, e ấp. Bước vào thánh đường sơn mình thành một nhà đạo đức, một thánh nhân, nhưng khi ra về thì đâu cũng lại vào đấy. Tất cả chỉ để che mắt thiên hạ. 








Wednesday, 26 September 2018

CHIẾN HẠM USS NEW YORK


CHIẾN HẠM USS NEW YORK
Hai tòa cao ốc bị đánh sập, xóa hẳn trung tâm Thương mại Thế giới, 3000 người chết, gần 6000 người bị thương tật, hơn 3000 tỉ đô-la mất mát. Đó là tổng kết nhân mạng và vật chất của cuộc khủng bố tại New York vào ngày 11 tháng 9 năm 2001. Riêng những mất mát tinh thần, những đau khổ dằn vặt và nhục nhã thì không kể xiết. Tất cả còn lại chỉ là 7 tấn rưỡi sắt thép dính đầy máu thịt của các nạn nhân.
Nhưng người Mỹ từ chỗ hoang tàn đã làm nên một hình ảnh rất đẹp, rất oai hùng. Họ đã gom 7.5 tấn thép đó về nhà máy để chế tạo thành một chiến hạm trị giá hơn một tỉ đô-la, đặt tên là USS New York. Tám năm sau, khi hoàn thành, ngày 7 tháng 9 năm 2009, chiến hạm được hạ thủy, tiến vào đất mẹ ở cảng New York giữa tiếng reo hò nồng nhiệt hòa lẫn với dòng nước mắt vui mừng để chào đón một kỳ tích, một niềm hãnh diện của dân tộc Hoa Kỳ.
Mỗi gram của chiếc tàu dũng mãnh nầy đều mang thịt da và máu xương của 3000 người ngã gục giữa buổi sáng định mệnh, nhưng giờ đây USS New York sẽ vượt trùng khơi với sứ mệnh bảo vệ nền tự do dân chủ. Dòng lệ đau thương mười năm trước được thay bằng nỗi hân hoan chào đón con thuyền băng mình vào sóng to, gió lớn, đối diện với kẻ thù, gìn giữ non sông.
Có những hạt giống rơi xuống đất, chết đi, nhưng không phải là vô ích. Nó trở thành cây lúa đơm bông nẩy hột. đem lại nguồn sống tiếp nối cho thế hệ mai sau. Hạt lúa cũng như bất cứ hạt giống nào khác đều mang sứ mệnh truyền sinh. Chúa Giê-xu đã tự ví chính mình như thế khi Ngài phán rằng: “Quả thật, quả thật, Ta nói cùng các ngươi, nếu hột giống lúa mì kia, chẳng chết sau khi gieo xuống đất, thì cứ ở một mình; nhưng nếu chết đi, thì kết quả được nhiều” (Giăng 12:24). Những đau thương Chúa Giê-xu trải qua và cái chết dường như thất bại, cay đắng để cuối cùng dẫn đến sự phì nhiêu sung mãn của sự sống phục sinh. Sự sống đó mở ra con đường phước hạnh và tập hợp mọi dân tộc vào vương quốc của nước Trời.
Chết không hẳn là điều tuyệt vọng. Bởi có nhiều cái chết lại khởi đầu cho một trang sử quật cường ở thế hệ mai sau. Hãy chào đón USS New York và hãy mở lòng ra tiếp nhận nguồn sống của Đấng đã vì Bạn chịu đau thương trên cây thập tự.


Sunday, 2 September 2018

“WORABEL”


Bạn có bao giờ nghe nói đến từ ngữ “WORABEL” nầy chưa? Đây là chữ viết tắt của câu nói ‘Work and Life Balance’, nghĩa là ‘Cân bằng việc làm và đời sống’. Chính phủ Nam Hàn mới đây mở ra chiến dịch Worabel để khuyến khích người dân không phải chỉ lo làm ăn đầu tắt mặt tối, nhưng cũng phải ngưng lại để tận hưởng niềm vui của đời sống. Họ nhắc dân chúng rằng mỗi chúng ta chỉ có một đời để sống. YOLO = you only live once!
Chiến dịch nầy rất quan trọng cho xã hội tại Nam Hàn. Bởi vì ở đây có số người làm việc nhiều giờ nhất trên thế giới: trên 20 phần trăm công nhân Nam Hàn phải làm 50 giờ mỗi tuần và họ không chịu nghỉ vào cuối tuần hay ngày lễ. Dĩ nhiên khi làm việc quá tải, nhiều người bị căng thẳng tinh thần, rơi vào trầm cảm khiến cho tỉ lệ tự tử tại Nam Hàn lên rất cao.
Nam Hàn là một nước có sự phát triển kinh tế tột bực. Những sản phẩm của họ như xe hơi, điện thoại di động, đồ gia dụng hay phim ảnh hầu như tràn ngập thế giới. Thu nập trung bình của người dân tại đây lên đến 30.000 Mỹ kim, là một trong số rất ít nước Á châu có lợi tức cao như thế. Tuy nhiên, kể tứ năm 2013, thống kê cho biết hơn phân nửa dân chúng không hài lòng với cuộc sống của mình. Chính vì thế, trong chiến dịch vận động tranh cử của tổng thống đương nhiệm, ông Moon Jae-in đã tung ra khẩu hiệu ‘Người dân là trước hết’. ông mong muốn mọi người thụ hưởng hạnh phúc, chứ không phải chỉ làm việc ngày đêm cho sự giàu có.
Nam Hàn không phải là quốc gia duy nhất quan tâm đến hạnh phúc của người dân. Ở nước Anh, năm 2012 chính phủ đã đề ra những phương án để thần dân hưởng một cuộc sống sung mãn. Riêng nhà nước vương quốc Ả-rập Thống-nhứt còn có một bộ đặc biệt lấy tên là ‘Bộ Hạnh Phúc’ với tham vọng đến năm 2021 ở đây sẽ là nơi hạnh phúc nhất thế giới. Còn nước Bhutan thì đặt tổng sản lượng hạnh phúc của dân chúng lên trên nhu cầu phát triển kinh tế.
Thánh Kinh có dạy chúng ta về ý niệm nầy không? Chúa Giê-xu từng phán: “Nhưng trước hết hãy tìm kiếm nước Đức Chúa Trời và sự công bình của Ngài, thì Ngài sẽ cho thêm các ngươi mọi điều ấy nữa” (Ma-thi-ơ 6:33). Nước Đức Chúa Trời là vương quốc của bình an, hạnh phúc. Người biết tìm kiếm nước ấy hẳn sẽ có một cuộc sống cân bằng, vui thỏa. Bí quyết tuyệt vời của Worabel là đây!

THÚ VUI ĐỌC SÁCH


Dân số Do Thái thưa thớt, nhưng nhân tài thì vô số. Lịch sử dựng lại đất nước chỉ vỏn vẹn 70 năm, nhưng họ đã có 8 người lãnh giải Nobel.
Nước Hungary có dân số không tới 10 triệu, nhưng đã lãnh được rất nhiều giải Nobel. Họ được xem là “quốc gia của những giải thưởng Nobel”.
Lý do? Đây là hai nước có tỉ lệ đọc sách nhiều nhất trên thế giới. Ở Do Thái, trong ngày Sa-bát tất cả mọi hoạt động đều ngưng nghỉ. Cửa hàng, quán ăn, khu vui chơi và ngay cả hãng máy bay cũng ngừng hoạt động. Chỉ một ngoại lệ, tất cả các nhà sách vẫn được mở cửa. Trong ngày đó, mọi người dân đều yên lặng đọc sách. Do Thái là dân tộc duy nhât trên thế giới không có người mù chữ, ngay cả người ăn xin cũng luôn có quyển sách bên cạnh. Đồi với họ, đọc sách là cách tốt nhất để đánh giá con người.
Ở Hungary, trung bình cứ 500 người dân là có một thư viện. Trên toàn lãnh thổ có tới 20.000 thư viện. Họ có tới 5 triệu người thường xuyên đọc sách, tức chiếm phân nửa dân số cả nước. Ở đó phát minh lớn nhỏ nhiều vô số và là một quốc gia Đông Âu sạch sẽ, xinh đẹp với đời sống tinh thần phong phú, đa dạng.
Bây giờ mời bạn nhìn xem thống kê đọc sách trên thế giời. Ở Do Thái và Hungary, trung bình mỗi năm một người dân đọc 64 quyển sách. Ở Trung Hoa chỉ 0.7, Việt Nam 0.8, Ấn Độ 1.2, Hàn quốc 7 quyển. Riêng Nhật Bản đọc tới 40 quyển mỗi năm. Người Nga 55 quyển. Đức và các nước Bắc Âu cũng với con số đó. Năm 2015 thống kê cho biết có tới gần 45 phần trăm người Đức đọc ít nhất một cuốn sách mỗi năm.
Chúng ta ngày nay dường như thiếu kiên nhẫn ngồi yên để đọc một quyển sách. Gọi điện thoại và lướt internet có vẻ thích thú hơn. Thời gian tĩnh lặng, thư thái bên những dòng chữ không còn là một thú vui tao nhã nữa. Những hiểu biết, tin tức đều lệ thuộc vào facebook, youtube, google, như những thứ mì ăn liền dù không biết đó là thật hay giả. Chúng ta quên rằng sự phát triển tư tưởng của một người chính là những gì người đó thu thập từ nơi sách vở. Sách không chỉ ảnh hưởng đến một cá nhân, mà cả đến toàn xã hội.
Sứ đồ Phao-lô ở trong tù, gần đến ngày bị xử chém cũng đã yêu cầu học trò của mình đem đến cho ông những quyển sách bằng da mà ông yêu quý. Ông thường khuyên vị giám mục trẻ tuổi Ti-mô-thê rằng: “Hãy chăm chỉ đọc sách” (I Ti-mô-thê 4:13).


XIN LỖI, ĐÀN ÔNG GIỎI HƠN


Giữa dòng xe cộ, nhiều cặp vợ chồng cãi nhau nên chọn đường nào đến nơi tốt nhất, nhanh nhất. Trong cuộc đụng độ đó, phần lớn các ông đành chịu thua, chìu theo ý quý bà, dù trong lòng rất hậm hực.
Hôm nay xin thưa: cánh đàn ông thật sự giỏi hơn phụ nữ trong việc dò tìm bản đồ và xác định phương hướng. Đây không phải là ý kiến có tính cách hời hợt, mà là kết luận như đinh đóng cột sau một cuộc nghiên cứu. Giáo sư Alexandra Boone của viện đại học California đã làm một cuộc thăm dò nhiều năm với 140 người, cả hai phái nam và nữ tham dự. Kết quả cho thấy cánh đàn ông luôn tỏ ra lấn lướt hơn, giỏi hơn trong việc chọn hướng đi, tìm những con đường tắt, trong khi quý bà thường đi theo những ngã đường quen thuộc.
Cuộc nghiên cứu còn cho thấy tài xế nam có khả năng tìm đường đến nơi nhanh hơn tài xế nữ. Trong khi đó quý bà thường chạy cùng một con đường đã từng đi qua trước đây, chứ ít khi dò tìm những nẻo đi mới. Trong phần kết luận, giáo sư Boone gọi phụ nữ là những người ưa “wandering”, nghĩa là ưa thích nhàn tản trên cùng một con đường mà trước đây đã từng đi qua.
Bạn thấy đó, chuyện gì người ta cũng đem ra mổ xẻ, nghiên cứu. Nhưng biết đâu nhờ cuộc tìm hiểu nầy mà quý bà yên tâm hơn khi ngồi kế bên cho đức lang quân cầm tay lái. Cuộc hành trình sẽ vui hơn nếu vợ chồng không cãi nhau vì những chuyện cỏn con, dù có thể đến điểm hẹn trễ hơn một chút.
Con đường thiên lý của cuộc đời cũng có nhiều điểm giống như thế. Lời Chúa dạy chúng ta, không những chỉ việc lái xe thôi, mà trong mọi sự phải “khiêm nhường đến điều, mềm mại đến điều”.
“Phàm trong các việc làm của con, khá nhận biết Ngài, thì Ngài sẽ chỉ dẫn các nẻo của con” (Châm Ngôn 3:6).

Thursday, 23 August 2018

SAMSONITE

Những doanh nhân thành đạt thường xách cạc-táp hiệu Samsonite. Những du khách giàu có dùng va-li hiệu Samsonite, vừa đẹp, vừa bền, vừa sang trọng. Người sáng lập thương hiệu Samsonite là Jesse Shwayder, một thanh niên gốc Do-thái.
Jesse Shwayder theo cha mẹ từ Đông Âu đến định cư tại Mỹ vào năm 1900. Cha của anh mở hết tiệm nầy đến tiệm khác, nhưng cả thảy đều thất bại. Ông vay mượn lung tung, nợ nần chồng chất đến nỗi phải dong ruổi tránh mặt những chủ cho vay. Đến thành phố Denver ông mở một tiệm bán trái cây, rau cải. Nhưng vận đen dường như cứ đeo đuổi mãi. Thấy cha càng ngày càng tiều tụy, Jesse nói: “Cha hãy để con lo việc kinh doanh. Biết đâu nhờ cậy Chúa, con có thể thay cha quán xuyến mọi sự”.
Denver lúc bấy giờ là thành phố du lịch, khách từ phương xa đến nghỉ dưỡng rất đông. Đứng trước cửa hàng rau trái, Jesse trông thấy nườm nượp người bước ra từ bãi đậu xe với những túi xách và kéo va-li. Trong đầu óc bén nhạy, Jesse quyết định sửa sang cửa tiệm, biến nó thành một cửa hàng bán túi xách du lịch. Vì tiệm ờ sát cạnh bãi đậu xe nên va-li, túi xách của anh được tiêu thụ với số lượng rất lớn.
Chẳng bao lâu sau những công ty sản xuất túi xách nổi tiếng đều cung cấp hàng cho tiệm của Jesse. Chỉ trong vòng hai năm, số tiêu thụ của Jesse Shwayder đã dẫn đầu toàn nước Mỹ. Lúc ấy các thương hiệu đều tỏ lòng tri ân. Họ quyết định tổ chức một bữa tiệc lớn tại New York để chiêu đãi Jesse Shwayder. Hôm đó tất cả đại diện của các công ty đều ra tận ga xe lửa chào đón một doanh nhân thành đạt. Nhưng khi nhìn thấy Jesse Shwayder từ toa xe bước xuống, mọi người đều chưng hửng, vì chàng chỉ là một cậu bé mới 16 tuổi!
Sau đó, Jesse quyết định tung ra một sản phẩm cho riêng mình. Anh tập trung tâm trí vào việc chế tác với tôn chỉ đẹp, bền và sang trọng, đặt tên là Samsonite. Samsonite là lấy từ tên Samson, một quan xét với khả năng siêu phàm trong Kinh Thánh mà anh đã ghi khắc trong tâm trí từ lúc còn thơ ấu.
Người Do-thái có một câu nói “Có trí tuệ là có của cải”. Trong một cuộc phỏng vấn, nhà báo hỏi Jesse Shwayder phải chăng đây cũng là bí quyết của ông? Jesse trả lời: Vâng, nhưng có tôi còn có một bí quyết cao đẹp hơn, được ghi trong  sách Châm Ngôn: “Sự kính sợ Thiên Chúa là khởi đầu sự khôn ngoan” (1:7).

Wednesday, 15 August 2018

PHƯỚC HẠNH CỦA LÒNG CẢM TẠ CHÚA


Vào năm 1860 có một sinh viên thần học tên Edward Spencer. Anh vừa học vừa làm nhân viên cấp cứu cho những du thuyền qua lại trên hồ Michigan. Bữa nọ có một du thuyền bị chìm, anh Spencer bơi ra bơi vào nhiều lần, cứu được cả thảy 17 hành khách. Vì làm việc quá sức và dầm mình lâu dưới nước, anh bị bịnh phổi và qua đời sau một thời gian chống chọi với đau đớn, bệnh tật. Rất lấy làm lạ, người ta kể lại rằng trong đám tang của anh không có một người nào trong số 17 nạn nhân đã được cứu vớt bỏ thì giờ đến chia buồn, tham dự.
Tổng thống Benjamin Franklin từng nói: ‘Con người đền bù những ơn huệ nhỏ, ghi nhớ những ân huệ trung bình và đáp lại những ơn huệ lớn bằng sự vô ơn’.
Phúc Âm Lu-ca chương 17 có ghi lại một phép lạ Chúa Giê-xu chữa lành cho mười người phung. Thời bấy giờ đây là căn bệnh nan y. Bệnh nhân bị đuổi ra khỏi bà con bạn hữu, sống lẻ loi, chết mỏi mòn trong sa mạc, gặp người đến gần phải hô lên “ô uế, ô uế” để họ tránh xa. Phép lạ của Chúa là “cải tử hoàn sinh”, làm sống lại từ cõi chết. Nhưng Chúa Giê-xu ngạc nhiên “sao chỉ có một người quay lại cảm ơn?” và ngạc nhiên hơn nữa vì đó là một “người ngoại quốc”.
“Còn chín người kia ở đâu?”
Hãy ngưng lại trong giây lát, tự hỏi: tôi có biết ơn Chúa không? Đôi lúc ánh sáng trong cuộc đời lịm tắt, rồi bỗng dưng nó được nhen lại bởi tia lửa của một ai đó. Chúng ta phải nghĩ tới người đã làm bừng lên ngọn lửa trong ta với lòng cảm tạ.
Toàn bộ Kinh Thánh có tất cả 250 lần nói đến sự “cảm tạ” và “biết ơn”. Tựu chung dạy chúng ta ba phước hạnh của người luôn biết ơn và cảm tạ Chúa:
1.     Người biết cảm tạ Chúa là người nắm giữ chiếc chìa khóa của cuộc đời hạnh phúc.
2.     Người biết cảm tạ là người sở hữu phương thuốc kỳ diệu, chữa lành mọi cay đắng trong đời.
3.     Người biết cảm tạ là người được trang bị cho cuộc chiến đấu – và chiến thắng- trước những trận chiến tâm linh.

“Hỡi Đấng Chí Cao, thật lấy làm tốt mà ngợi khen và ca tụng Danh của Ngài” (Thi thiên 92:1)

Tuesday, 14 August 2018

LÒNG BIẾT ƠN


Chàng vừa tốt nghiệp đại học, nộp đơn làm quản lý cho một công ty lớn. Rất may được chính vị giám đốc phỏng vấn. Ông xem học bạ của chàng lấy làm hài lòng vì luôn luôn có thành tích xuất sắc.
Ông hỏi: Anh có nhận được học bổng từ trường không? –Dạ không bao giờ. Vậy là cha anh trả toàn bộ học phí cho anh phải không? –Dạ, cha tôi qua đời khi tôi vừa được một tuổi. Tất cả học phí là do mẹ tôi trang trải. Giám đốc hỏi tiếp: Vậy mẹ anh làm việc ở công ty nào? –Dạ, mẹ tôi giặt ủi quần áo cho khách hàng.
Ông giám đốc đề nghị chàng cho xem hai bàn tay. Chàng có đôi tay đẹp và mềm mại. Ông hỏi: Từ trước đến nay anh có giúp đỡ mẹ giặt ủi quần áo không? –Dạ không. Mẹ tôi lúc nào cũng muốn tôi chăm chỉ vào việc học, hơn nữa bà giặt ủi nhanh hơn tôi nhiều. Cuối cùng giám đốc nói: Tôi có một yêu cầu, đó là hôm nay khi về nhà anh rửa hai bàn tay của mẹ anh, rồi sáng mai đến đây gặp lại tôi.
Rất mừng rỡ vì biết mình có cơ hội trúng tuyển, anh về gặp mẹ và xin hãy để anh rửa hai bàn tay của bà hôm nay. Mẹ rất ngạc nhiên nhưng cũng vui và cảm động được con chăm sóc. Chàng trai trẻ chầm chậm rửa sạch đôi bàn tay của mẹ. Bỗng dưng hai dòng nước mắt chảy dài trên má. Lần đầu tiên anh cầm lấy đôi bàn tay nhăn nheo và chai cứng của mẹ, trên đó còn có những vết thẹo do công việc nặng nhọc để lại. Anh nhận ra rằng chính đôi tay nầy đã quần quật suốt ngày đêm để anh có đủ tiền ăn học, vui chơi cùng chúng bạn. Những vết sẹo ngang dọc đó là cái giá mua lấy cho anh những bảng điểm xuất sắc và mảnh bằng vinh dự ngày hôm nay.
Buổi sáng khi trở lại văn phòng, giám đốc thấy trên khóe mắt anh vẫn còn ngấn lệ. Ông hỏi: anh hãy cho tôi biết cảm xúc khi rửa hai bàn tay của mẹ? –Thưa ông, tôi đã khóc rất lâu khi rửa đôi tay của mẹ. Tôi hiểu nhờ có mẹ mà tôi được như ngày hôm nay. Tôi hiểu rằng kiếm tiền không phải là dễ, và nhất là tôi học biết trân trọng tình cảm gia đình, biết ơn công khó của những người đã cưu mang tôi. Giám đốc tươi cười nói: Đó chính là những gì tôi cần tìm nơi một nhà quản lý. Anh có thể bắt đầu công việc ngày mai.
“Đức Chúa Giê-xu cất tiếng phán rằng: Không phải mười người đều được sạch cả sao? Còn chín người kia ở đâu? Chỉ có người ngoại quốc nầy trở lại ngợi khen Đức Chúa Trời ư?” (Lu-ca 17:11-19)

Tuesday, 7 August 2018

BÍ QUYẾT KINH DOANH CỦA NGƯỜI DO-THÁI


Dân Do-thái chỉ có tổng cộng 14 triệu, chiếm 0,2% dân số thế giới. Thế nhưng, trong lãnh vực chính trị, khoa học và tư tưởng, họ chiếm đến 1/10 những người nổi tiếng. Nghĩa là cứ 10 nhân vật hàng đầu thì có một người Do-thái hoặc hậu duệ của họ.
Có thể chính vì xuất sắc quá mà người Do-thái phải chịu nhiều đố kỵ, ganh ghét. Lịch sử cho thấy dân tộc nầy trải qua biết bao cuộc bách hại, tàn sát. Một trong những hiểu lầm tai hại, là nhiều người cho rằng dân Do-thái thường kinh doanh trên sự bóc lột, chèn ép người khác, như cho vay ăn lời cắt cổ chẳng hạn. Họ bị tô vẽ ra hình ảnh của một cộng đồng hà tiện, coi nặng đồng tiền, không quan tâm đến lợi ích người khác mà chỉ nghĩ đến cách làm giàu trên xương máu của đồng loại.
Sự thật có phải như vậy không? Nguyên tắc làm ăn của người Do-thái là gì?
Lần giở Thánh Kinh chúng ta có thể hiểu được phần nào quan niệm kinh tế của người Do-thái. Điều cuối cùng trong Mười Điều Răn họ thuôc nằm lòng, là “Ngươi chớ tham nhà kẻ lân cận ngươi, cũng đừng tham vợ người, hoặc tôi trai tớ gái, bò, lừa, hay là vật chi thuộc về kẻ lân cận ngươi” (Xuất 20:17). Tinh thần cơ bản của người Do-thái là không làm phiền người khác, không làm hại người khác. Từ đó họ có một nguyên tắc vàng khi làm ăn, buôn bán: “Việc mình không muốn thì đừng làm cho người khác”. Đây không những là tư tưởng kinh doanh mà còn là cơ sở của tôn giáo người Do-thái. Với căn bản niềm tin đó, họ kinh doanh cách quang minh chính đại, công bằng và nhân đạo.
Dẫn chứng một thí dụ. Vào thế kỷ thứ 12 người Do-thái khắp nơi làm ăn rất thịnh vượng. Trong số họ nhiều người cho vay lấy lời. Thành công nầy dẫn đến sự ganh tị. Chính quyền thời đó ra lịnh cấm hẳn nghề cho vay. Dầu không thể tiếp tục nữa, nhưng uy tín của những chủ nợ Do-thái không hề bị suy suyển. Một thời gian sau, người Ý trổi dậy chiếm lĩnh thị trường cho vay lấy lời, với sự hậu thuẫn của chính quyền thời đó. Nhưng vì lề lối cho vay của những người Ý (thường gọi là Lombardo) không đặt nền tảng trên đạo đức của Thánh Kinh nên cuối cùng tiếng tăm rất xấu.
Chúa Giê-xu đã từng nêu lên một lối cư xử cao thượng: “Hễ điều chi các ngươi muốn người ta làm cho mình, thì cũng hãy làm điều đó cho họ” (Ma-thi-ơ 7:12).
Lời dạy vàng ngọc nầy chẳng những đúng trong lãnh vực thương mại, mà cũng đúng cho mọi sinh hoạt hằng ngày của đời sống!

Wednesday, 1 August 2018

SAO GỌI TÔI LÀ DA MÀU?


Một đứa bé Phi Châu đã viết bài thơ tựa đề “Who is coloured?” (Ai là người da màu?). Bài thơ được cơ quan Văn hóa Liên Hiệp Quốc chọn là áng văn hay nhất trong năm 2006. Bài thơ như sau:
When I born, I black. When I grow up, I black. When I cold, I black. When I go in sun, I black. When I scared, I black. When I sick, I black. And when I die, I still back.
And you white fellow!
When you born, you pink. When you grow up, you white. When you cold, you blue. When you go in sun, you red. When you scared, you yellow. When you sick, you green. And when you die, you grey.
And you calling me coloured?
(Tôi sinh ra, đen. Tôi lớn lên, đen. Khi tôi lạnh, đen. Tôi phơi nắng, đen. Khi tôi sợ, đen. Lúc tôi bệnh, đen. Rồi khi chết, tôi vẫn đen.
Hỡi những người bạn da trắng!
Khi bạn sinh ra, hồng. Bạn lớn lên, trắng. Lúc bạn lạnh, xanh. Bạn phơi nắng, đỏ. Khi bạn sợ, vàng. Khi bạn bịnh, màu lá. Và khi chết, bạn xám.
Thế mà bạn gọi chúng tôi là da màu?)
Thói thường đánh giá người khác do chủ quan, định kiến, kỳ thị và lòng đố kỵ nên khó tránh khỏi bất công, phiến diện. Bởi thế người xưa còn để lại lời khuyên: “Tiên trách kỷ, hậu trách bỉ” (tự trách mình trước khi trách người) là thế.
Chúa Giê-xu còn nêu lên một hình ảnh khắc khe hơn trong việc xét đoán người khác. Ngài phán: “Sao ngươi dòm thấy cái rác trong mắt anh em ngươi, mà không thấy cây đà trong mắt mình? Hỡi kẻ đạo đức giả! Trước hết phải lấy cây đà khỏi mắt mình, rồi mới thấy rõ mà lấy cái rác khỏi mắt anh em mình được”.
Lời dạy của Ngài thật rõ ràng: “Các ngươi đừng đoán xét ai, để mình khỏi bị đoán xét” (Ma-thi-ơ 7:1-5).

Thursday, 24 May 2018

THẬP TỰ XƯA (THÁNH CA 374)


Thập tự xưa sừng sững cao, dựng tận trên sườn núi xa, như tiêu biểu cho muôn sầu khổ sỉ nhục.
Lòng tôi yêu thập giá xưa, nơi Vua vinh diệu chí cao, thay nhân thế hư hoại chết cách đau thương.
Lòng tôi say mê bóng dáng thập tự xưa. Vui lòng đầu phục tận hiến cả cuộc đời.
Lòng ôm ấp mối quyến luyến với thập tự. Sẽ biến nên mão vinh diệu cho chính tôi.
Tác giả của bài thánh ca đầy xúc động nầy là Mục sư George Bernnard, sinh năm 1873, sống thọ 75 tuổi. Năm 16 tuổi cha ông mất đi, để lại gánh nặng mẹ già và 4 đứa em gái, vì thế ông không học hành đến nơi đến chốn. Khi lớn lên lập gia đình và làm việc cho Hội Salvation Army. Mỗi Chúa Nhật ông bà sinh hoạt với Hội Thánh Giám Lý và lần hồi trở nên một nhà truyền đạo.
Suốt những năm đầu trong chức vụ ông luôn quỳ gối cầu nguyện xin cho thấu hiểu ý nghĩa trọn vẹn của thập tự giá và sự chết của Cứu Chúa. Đến một lúc dường như được mặc khải cách kỳ diệu, ông thốt lên: “Tôi đã thấy Đấng Christ của thập tự giá, tôi như chiêm ngưỡng Ngài đang hành động trong sự cứu rỗi”. Từ trải nghiệm đó một bài thơ đã hình thành trong tâm trí của ông. Bài thơ đó được phổ thành ca khúc “The old rugged cross” (Thập Tự Xưa).
Ngay lập tức bài hát được phổ biến rộng rãi, mọi người biết đến. Ở từng gia đình, từng buổi nhóm lớn nhỏ, bệnh viện, nhà thờ và ngay cả trong tù. Các phạm nhân trong nhà lao đã gọi “Bài thánh ca của tù nhân” bởi nó được phủ đầy năng lực để chữa lành tâm linh, khích lệ kẻ ngã lòng và an ủi người sầu thảm.
Ngày nay Bạn đến thành phố Reed ở Michigan sẽ thấy có một cây thập tự cao 3.6 mét để vinh danh người đã soạn nên ca khúc. Trên cây thập tự có ghi “Nơi đây là nhà của tác giả bài thánh ca Thập Tự Xưa”. Trong suốt 45 năm hầu việc Chúa, Mục sư George Bernnard đã soạn hơn 350 bài thánh ca nhưng không một bản nào để lại dấu ấn sâu đậm như bài hát “Thập Tự Xưa”.
“Đương khi người Giu-đa đòi phép lạ, người Gờ-réc tìm sự khôn ngoan, thì chúng ta giảng Đấng Christ bị đóng đinh trên cây thập tự” (I Cô-rinh-tô 1:22-23).

Friday, 18 May 2018

NGƯỜI CÓ CÁNH TAY VÀNG



Ông James Harrison, một người Úc 78 tuổi, đã làm một việc phi thường: hiến máu 1173 lần trong vòng 60 năm qua. Lượng máu ông cho đi đã cứu sống 2 triệu 400 ngàn trẻ em.
Ông kể lại rằng vào năm 1951, lúc được 14 tuổi, ông bị bịnh phải cắt bỏ một lá phổi. Ông đã được cứu sống nhờ nhận 13 lít máu từ những người xa lạ. Sau ca mổ đó, ông tâm nguyện sẽ làm người hiến máu khi đủ tuổi được phép. Tuy nhiên, không ngờ việc đó đã vượt ra ngoài điều ông tưởng tượng, vì trong máu của ông có một loại kháng thể đặc biệt có thể cứu sống hàng triệu đứa bé mắc chứng bịnh rhesus.
Bệnh rhesus được y khoa Úc phát hiện vào năm 1967, mỗi năm có đến cả ngàn trẻ em chết vì chứng bệnh nầy. Biểu hiện của căn bịnh nầy là kháng thể của người mẹ tiêu diệt các tế bào máu của thai nhi, xảy đến nhiều trường hợp sẩy thai hoặc em bé sơ sinh bị tổn thương não. Lạ thay trong máu của ông Harrison nầy có một kháng thể đặc biệt tạo ra chất Anti-D nhằm chữa bịnh rhesus. Hội Hồng Thập Tự Úc cho biết nhờ máu của ông đã cứu được 2.400.000 em bé suốt 60 năm qua. Ông là một trong 50 người Úc sở hữu loại kháng thể quý báu nầy.
Cứ ba tuần ông hiến máu một lần. Cho đến nay, sau 60 năm, ông đã đạt kỷ lục hiến máu lần thứ 1173. Harrison nói: “Tôi mong sẽ có người vượt qua kỷ lục nầy. Bởi vì nhờ đó chúng ta sẽ cứu được nhiều mạng sống hơn”.
Vào Thứ Sáu vừa qua, 11 tháng 5, 2018 tại Sydney Town Hall ông đã thực hiện ca hiến máu cuối cùng. Bên giường ông người ta treo những bong bóng có hàng số 1173 để ghi nhận số lần ông đã đến đây. Theo quy định của Hội Hồng Thập Tự, ở tuổi 81 như ông cần phải ngưng hiến máu để bảo vệ sức khỏe. Vị cựu nhân viên hỏa xa Harrison phát biểu cảm tưởng: ‘Thế là chấm dứt một thời kỳ hạnh phúc. Tôi lấy làm buồn vì tưởng rằng mình còn có thể tiếp tục nhiều hơn nữa”.
Thật ra những gì ông làm đã vượt lên trên kỳ vọng của mọi người, cho đến nỗi cô Robyn Barlow, một nhân viên phụ trách hiến máu đã nói: ‘Mỗi lần nghĩ đến sự cống hiến của ông, tôi đều bật khóc’. Phát ngôn viên Hồng Thập Tự thì nói: ‘Hội chúng tôi tại Úc không đủ lời để cảm ơn ông. Từ nay chúng tôi khó mà tìm được một người sẵn lòng hiến tặng bền bỉ như vậy’. Chính phủ Úc đã trao tặng huy chương Medal of the Order để thể hiện sự tri ân. Và chính con gái của ông cũng đã từng nhờ sự hiến tặng máu của cha mà giữ được mạng sống của hai đứa con. Cô nói: ‘Cảm ơn bố đã cho con cơ hội để có hai đứa con khỏe mạnh’. Còn rất nhiều người nữa. Nghe như thế ông chỉ cười nói: ‘Có phải tôi đã tạo ra nạn nhân mãn trên trái đất nầy chăng? Thật ra cứu một đứa trẻ thì tốt, cứu hàng triệu đứa trẻ là điều kỳ diệu. Tôi vui mừng đã làm được điều đó’.

Quả thật James Harrison là một người có cánh tay bằng vàng. Nhưng hơn thế nữa, ông còn có trái tim bằng vàng để sẵn lòng hiến tặng cho tha nhân.

19/5/2018

Tuesday, 15 May 2018

TA SẼ CHUNG NHÓM Ở THIÊN HÀ (THÁNH CA 345)


Mục sư Robert Lowry là người chăn bầy cho một Hội Thánh tại thành phố New York. Vào năm 1864 thời tiết tại đó bỗng dưng khắc nghiệt, vừa oi bức vừa ẩm ướt cách khác thường. Và rồi một trận dịch kinh hồn bắt đầu quét ngang thành phố. Ở đô thị đông đúc, hết người nầy đến người khác lần lượt ngã xuống. Người chết càng lúc càng nhiều.
Mục sư Robert Lowry đi thăm từ nhà nầy qua nhà nọ, ủy lạo người bệnh, an ủi gia đình có tang chế. Một câu hỏi nhiều tín đồ nêu lên cứ vương vấn mãi trong tâm hồn ông: Thưa Mục sư, chúng ta sẽ chia tay trước ngưỡng cửa sự chết, liệu rồi đây sẽ còn gặp nhau nữa hay không? Ông chỉ biết an ủi họ rằng dù hạnh phúc bây giờ tan vỡ, nhưng rồi sẽ vẹn toàn ở dòng sông bên ngai Đức Chúa Trời, như lời Thánh Kinh: “Thiên sứ chỉ cho tôi xem sông nước sự sống, trong như lưu ly, từ ngôi Đức Chúa Trời và Chiên Con chảy ra” (Khải Huyền 22:1). Ông cứ nhắc đi nhắc lại mãi lời hứa nầy với hàng trăm gia đình phủ trong màu tang chế, khi người thân và bạn bè lần lượt ra đi.
Vào một buổi chiều nọ, vị Mục sư mệt mỏi trở về phòng khách, trong cái nóng bức kinh hồn và số người chết nhiều vô kể, ông chán nản ngồi vào cây đàn phong cầm để tìm chút lắng đọng bằng âm nhạc, mong có vài phút giải thoát khỏi những cảm xúc đè nặng trong tâm. Ông nhớ đến những đứa trẻ xinh đẹp như thiên thần đã không chịu nổi sự tàn hại của bệnh dịch. Ông nghĩ đến những thanh niên thiếu nữ, đàn ông đàn bà đã nằm xuống trước lưỡi hái tử thần. Và đột nhiên câu hỏi lại trở về: Chúng ta sẽ gặp nhau lại chăng? Giữa sự xâu xé đó, dòng nhạc bỗng trào dâng. Bắt đầu bằng một thắc mắc như có chút ngờ vực, nhưng rồi bởi đức tin mạnh mẽ, câu trả lời thật sinh động và dứt khoát: “Vâng, ta sẽ chung nhóm ở thiên hà!”.
Phải chăng sau nầy họp trên sông vàng. Nơi muôn thiên sứ hay lai vãng?
Sông kia tuôn dòng lưu ly muôn đời. Lưu ra từ ngôi Đức Chúa Trời.
Vâng, ta sẽ chung nhóm ở thiên hà. Là sông đẹp xinh không thể thuật ra.
Sông đây nơi họp của thánh dân muôn đời. Sông tràn từ ngôi Đức Chúa Trời”.
Bài hát đã trở thành một thánh ca bất hủ suốt dòng lịch sử giáo hội gần 200 năm qua.

Sunday, 6 May 2018

TÔI GỌI NGƯỜI LÀ MẸ



Ở miền quê hẻo lánh có môt người phụ nữ đơn thân, bụng mang dạ chửa. Vào một đêm giông bão, cô đau bụng dữ dội và biết mình sắp sanh. Cô quyết định đi đến bệnh xá cách đó rất xa. Trên đường đi phải băng qua một chiếc cầu nhỏ. Khi tới giữa cầu cô đau đến mức không thể đi được nữa. Cô quyết định luồng xuống gầm cầu để hạ sinh con mình tại đó.

Sáng hôm sau có một người phụ nữ giàu có chạy xe qua cầu thì bỗng dưng chết máy, khi bước xuống chị ta nghe tiếng khóc bé thơ vang lên đâu đó. Không thể dửng dưng, chị lần xuống dưới gầm cầu và thấy đứa bé quấn trong những lớp quần áo dày, còn người mẹ đã chết cóng vì không mảnh vải che thân. Người phụ nữ tốt bụng ầy đem đứa bé về nuôi, đặt tên nó là Billy.

Vào sinh nhật thứ mười của Billy, chị kể lại cho cậu nghe câu chuyện. Cậu bé im lặng cúi đầu. Bỗng dưng nó yêu cầu chị dẫn tới ngôi mộ của người mẹ xấu số dù trời đang giữa mùa đông giá lạnh.

Đến nơi, Billy xin cho được ở bên mộ mẹ một mình. Người mẹ nuôi đi ra xa nhưng vẫn để mắt theo dõi. Nó đứng trước mộ, lần lượt cởi từng lớp áo khoác của mình ra. Chị ngạc nhiên nhưng suy nghĩ: ‘Chắc nó không cởi hết đâu, trời đang lạnh thế nầy’. Thế mà cậu bé cởi hết quần áo trên người, đến khi không còn mặc gì nữa. Chị hốt hoảng chạy đến, thấy đứa bé bật khóc nức nở và ôm mộ mẹ nó mà hỏi: “Mẹ ơi! Lúc ấy chắc mẹ lạnh lắm phải không?”.


Chung quanh tôi có hàng vạn con người,
Nhưng trong tôi chỉ có một người thôi.
Người ấy trao cho tôi sự sống
Và đã cho tôi hiểu vẻ đẹp cùng ý nghĩa cuộc đời.
Tôi gọi Người là Mẹ.

“Hãy làm cho cha mẹ con được vui vẻ.
Hãy làm cho NGƯỜI MẸ sinh ra con được vui thỏa vì con”.             
Châm Ngôn 23:25 (Bản dịch 2011)




Sunday, 29 April 2018

MỘT HỢP ĐỒNG 200 NĂM


Bên bờ sông Hudson của thành phố New York có ngôi mộ một cậu bé nằm cách lăng của tổng thống thứ 18 nước Mỹ, ông Ulysses Grant chưa tới 100 mét. Cạnh ngôi mộ nhỏ bé có một tấm bảng ghi lại câu chuyện như sau:
Ngày 15 tháng 7 năm 1797 một cậu bé chẳng may rơi xuống vách núi, tử vong. Cha mẹ cậu rất đau xót nên đã chôn cậu ngay trong khu vườn của mình. Sau đó vì hoàn cảnh gia đình, họ phải bán đi khu đất tài sản. Trong hợp đồng chuyển nhượng có ghi một điều khoản đặc biệt: Yêu cầu người chủ mới giữ lại vĩnh viễn ngôi mộ của cậu bé. Suốt cả thế kỷ sau, dù khu đất được bán đi bán lại nhiều lần, nhưng nấm mồ của đứa con xấu số vẫn được giữ nguyên.
Đến năm 1897, tổng thống Grant tạ thế. Người ta chọn ngay khu đất đó làm chỗ an nghỉ cho vị cố tổng thống Hoa Kỳ. Điều khiến nhiều người xúc động, là ngôi mộ của cậu bé vẫn không dời đi, khiến cậu trở thành người hàng xóm của một bậc danh nhân Hiệp Chủng Quốc.
Nhân 100 năm ngày mất của tổng thống Ulysses Grant, tháng 7 năm 1997, thị trưởng thành phố New York đến đây để làm lễ tưởng niệm. Dịp nầy ông cho tu sửa lại phần mộ của cậu bé. Chẳng những thế, còn đích thân viết lại câu chuyện trên một tấm bảng để truyền lại cho hậu thế. Một hợp đồng qua nhiều người làm chủ, kéo dài hơn 200 năm, để nói lên đạo lý làm người rất đơn giản nhưng vô cùng cao quý: Khi đã hứa, nhất định phải giữ lời!
Giữa người với người mà biết tôn trọng lời hứa, huống chi giữa Thiên Chúa với con người. Một khi Ngài đã phán, dù cho vật đổi sao dời, thì cuối cùng mỗi buổi sáng thức dậy nhìn ánh chiêu dương, chúng ta vẫn thấy rất rõ sự thành tín đời đời của Ngài.
“Dầu núi dời, dầu đồi chuyển, nhưng lòng nhơn từ của Ta đối với ngươi chẳng dời khỏi ngươi, lời giao ước bình an của Ta chẳng chuyển. Đức Giê-hô-va là Đấng thương xót ngươi phán vậy”. (Ê-sai 54:10)

Wednesday, 25 April 2018

GIÁ TRỊ CỦA MỘT LỜI KHUYÊN


Năm 1922, nhà bác học lừng lẫy của thế kỷ 20, Albert Einstein, được tin mình sẽ vinh dự nhận giải Nobel vật lý. Lúc ấy ông có một chuyến đi Nhật Bản để thuyết trình những khám phá khoa học.
Là một người thường sống đơn giản, ít mang theo tiền mặt trong túi, nên khi một nhân viên khách sạn giúp đem hành lý lên phòng, ông không có sẵn tiền tip cho anh ta. Ông vội lấy một mảnh giấy và bày tỏ lòng biết ơn của mình qua một câu viết: “Một cuộc sống bình lặng và khiêm tốn sẽ mang lại nhiều hạnh phúc hơn là đeo đuổi thành công, vì cái đuôi của nó chỉ là sự mỏi mệt không nguôi”. Xem đó là một kỷ niệm đẹp từ một nhà bác học nổi danh, anh nhân viên giữ mảnh giấy ấy cách cẩn thận nhiều năm.
Một thế kỷ sau, mới đây người cháu của anh đã đem mảnh giấy đó ra bán đấu giá tại Giê-ru-sa-lem. Lúc đầu người ta hi vọng sẽ bán được khoảng 8000 dollars, nhưng không ngờ người cháu của nhân viên khách sạn ngày xưa bỗng dưng trở thành triệu phú, vì có người đã trả đến hai triệu dollars để làm chủ mảnh giấy đó. Người ta nhận định rằng mảnh giấy tự nó có giá trị không những nó là thủ bút của một bậc kỳ tài, mà còn do được in đậm bởi tấm lòng khiêm nhu của một nhà bác học. Ông vẫn thường nói: “Có hai thứ vô cực: một là vũ trụ, hai là sự ngu xuẩn của con người”. Bởi thế Albert Einstein luôn được ngưỡng mộ như là một người hiểu biết rất nhiều mà luôn tỏ ra khiêm tốn. Ảnh hưởng của ông sẽ còn kéo dài qua nhiều thế hệ.
Chúa Giê-xu của chúng ta không để lại di bút. Suốt quãng thời gian trên trần thế, người ta ghi nhận chỉ một lần Ngài viết lên mặt đất lúc đám đông giận dữ, hò hét đòi ném đá người phụ nữ phạm tội. Cho đến nay cũng chưa ai biết chắc Ngài đã viết những gì. Dầu vậy ảnh hưởng của Ngài đã đem lại niềm hi vọng, an ủi và sự cứu rỗi cho hàng tỉ người qua suốt dòng lịch sử.
Thế hệ nầy tiếp nối thế hệ khác, mọi tầng lớp con người đã chứng minh lời phán của Ngài đã thay đổi cuộc đời của họ: “Ta là Con Đường, là Chân Lý và là Nguồn Sống. Nếu không nhờ Ta, không ai được đến với Cha” (Giăng 14:6).