Saturday, 30 December 2017

VIẾT TRÊN CÁT HAY KHẮC TRÊN ĐÁ?

Trên con đường vắng vẻ mùa hè nóng cháy, hai người bạn thân Hiusang và Tanka có cuộc tranh luận gay gắt. Trong lúc không kiềm chế được cảm xúc, Hiusang đã vung tay tát bạn mình. Tanka đau đớn lắm, nhưng không nói một lời, chỉ viết lên cát: ‘Hôm nay người ban thân nhất đã tát vào má của tôi’.
Đến một con sông, hai người rủ nhau tắm gội trong dòng nước trong xanh. Không ngờ Tanka bị vọp bẻ suýt chết đuối. May mà nhờ Hiusang cứu kịp. Sau khi tỉnh lại, Tanka đã khắc trên một tảng đá: ‘Hôm nay người bạn thân nhất đã cứu tôi’.
Hiusang ngạc nhiên khẻ hỏi: ‘Sao hôm qua bị tôi đánh thì anh viết lên cát, còn hôm nay tôi kéo anh lên khỏi nước anh lại viết lên đá?’. Tanka mỉm cười đáp lại: ‘Khi có ai lầm lỗi với ta thì ta viết lên cát để sóng gió cuốn đi cùng với lòng tha thứ. Nhưng khi ta chịu ơn thì phải khắc lên đá như ghi tạc vào tâm can để không có mưa gió nào xóa mờ đi được’.
Sự khác biệt giữa người cao cả và kẻ tầm thường ở chỗ họ ghi nhớ điều gì nơi tha nhân, bạn hữu. Thói thường trong cõi nhân gian là dễ quên ơn mà lại nhớ hoài lầm lỗi của người khác. Thụ hưởng biết bao ân huệ, được cứu giúp trong cơn ngặt nghèo, bỉ cực, chỉ một thời gian ngắn ta quên mất. Nhưng nếu lỡ nói một lời xúc phạm hay làm một điều lầm lỗi, muôn đời ta vẫn không quên.
Vượt lên trên lẽ thường tình của nhân thế, nhất là mang trong mình ảnh tượng của Chúa Cứu Thế, người Cơ-đốc hẳn phải cư xử nhau trong tình yêu và lòng khoan dung, tha thứ. Không phải trên đầu môi chót lưỡi, mà là phát sinh tự một tấm lòng đã được tái sanh, đổi mới. Sứ đồ Phao-lô khuyên: “Chớ lấy ác trả ác cho ai; phải chăm làm điều thiện trước mặt mọi người. Nếu có thể được, thì hãy hết sức mình mà hòa thuận với mọi người. Đừng đề điều ác thắng mình, hãy lấy điều thiện thắng điều ác” (Rô-ma 12:17-21).
Lời nói xúc phạm, thái độ lạnh nhạt, cư xử bất nhã ai cũng chịu nhói đau. Ngay lúc đó nói điều yêu thương, tha thứ không phải dễ. Nếu viết xuống, hãy viết lên cát, để khoảnh khắc mưa gió xóa mờ. Nhưng hãy khắc trên đá tình bạn, từng miếng cơm manh áo đã chia nhau lúc vui buồn trong cuộc sống, để nó mãi còn lại với thời gian.
Ở cuối chặng đường đời, gia tài lớn nhất ta để lại là những lời vàng khắc sâu trên đá.




Wednesday, 27 December 2017

NGƯỜI XỨNG ĐÁNG ĐỂ CẦU NGUYỆN

Lu-ca 18:9-14. “Người thâu thuế đứng xa xa, không dám ngước mắt lên trời, đấm ngực mà rằng: Lạy Đức Chúa Trời, xin thương xót lấy con, vì con là kẻ có tội”.
Có dịp mời Bạn đọc lại đoạn Kinh Thánh trên đây một vài lần và suy nghĩ đến hai người lên đền thờ cầu nguyện. Một người Pha-ri-si quá đủ tiêu chuẩn để có thể mời đại diện cầu thay cho Hội Thánh và một người thâu thuế có lẽ không xứng đáng bước vào nhà thờ. Nhưng sau khi cả hai dâng lời cầu nguyện, Đấng có thẩm quyền quyết định đã cho kẻ tội lỗi được xưng là công bình hơn.
Ai cũng biết Đức Chúa Trời là Đấng toàn hảo, luôn luôn giữ trọn lời hứa. Nhưng bởi lòng nghi ngờ, nhiều lúc chính chúng ta xem thường sự thành tín của Ngài. Ma-quỷ thì thầm bên tai chúng ta rằng: Chúa chỉ nghe và nhậm lời cầu nguyện nếu chúng ta sống xứng đáng hơn hoặc có cuộc đời toàn hảo hơn. Xin thưa: Nếu bạn chờ đợi đến khi mình hoàn toàn tốt, có đủ tư cách để cầu nguyện, thì lúc ấy bạn không cần cầu nguyện nữa!
Sự cầu nguyện trước mặt Chúa không dựa trên công đức, tiêu chuẩn hay phẩm chất, hoặc là những lời hoa mỹ từ môi miệng, mà là trông cậy hoàn toàn trên lời hứa bất biến của Ngài. Người đến quỳ gối dưới ngôi thi ân của Chúa biết rõ rằng mình không xứng đáng, nhưng tin quyết lời của Ngài rằng: “Ai kêu cầu Danh Chúa thì sẽ được cứu”. Và bởi biết Ngài là Đấng “hôm qua, ngày nay và cho đến đời đời không hề thay đổi”, nên mạnh dạn đến cầu khẩn ơn thương xót của Ngài.
Có người nói: Chúng ta cầu nguyện bởi vì mình không xứng đáng để cầu nguyện! Thật vậy, những kêu nài của chúng ta được Chúa dủ nghe bởi vì chúng ta bám chặt lấy ơn thương xót của Chúa và gieo mình vào sự thành tín đời đời của Ngài.

Ma quỷ sợ nhất khi tội nhân quỳ dưới chơn Chúa cầu khẩn Danh Ngài. Đó là lúc quyền lực của nó bị rúng động. Đó là lúc ân sủng của Thiên Chúa tuôn trào và sức mạnh quyền năng Ngài thể hiện. Cho nên, điều quan trọng là Bạn có đủ đức tin, đủ can đảm hạ mình xuống kêu cầu cùng Đấng thành tín đời đời ngay lúc nầy chăng?

Thursday, 14 December 2017

BÀI HÁT GIÁNG SINH 205 NĂM

BÀI HÁT GIÁNG SINH 205 NĂM

Bạn có biết bài thánh ca “Đêm Yên Lặng” rất nổi tiếng của mùa Lễ Giáng Sinh đã được viết cách nay 205 năm? “Đêm yên lặng! Đêm thánh nầy! Vắng vẻ thay. Sáng láng thay” mở đầu bằng những lời đơn sơ bình dị, nhưng đã trở thành bản thánh ca lừng lẫy qua nhiều thời đại.

Tại ngôi làng hẻo lánh Oberndorf nước Áo có linh mục phó xứ Joseph Mohr. Chàng thanh niên 25 tuổi nầy rất năng động trong những công tác giáo hội, từ thiện, ưa làm thơ và có khiếu đàn guitar. Chàng có người bạn cùng đức tin, một nhạc sĩ tên Franz Gruber làm nghề dạy học.

Năm 1818, ngay hôm trước Giáng Sinh, khi đang sửa soạn những phần cuối cùng cho buổi lễ, cây đàn đại phong cầm của nhà thờ bỗng dưng bị hỏng. Một đêm Nô-ên không có tiếng phong cầm sẽ buồn tẻ biết bao. Chỉ còn vài tiếng đồng hồ nữa, linh mục Mohr chẳng biết làm gì hơn là cúi đầu cầu nguyện. Bỗng dưng ông nhớ lại một bài thơ đã làm hai năm trước đó. Ông nghĩ có lẽ bài hát mới với tiếng đàn guitar cũng đem lại chút âm nhạc sinh động.

Ngay giữa đêm Đông giá rét, ông chạy đến nhà người bạn Gruber với bài thơ yêu cầu soạn thành một bài hát song ca có tiếng đàn guitar và phần đệm của ca đoàn. Chỉ 30 phút chuẩn bị nhưng buổi lễ cũng trải qua cách tốt đẹp. Mọi người đều thông cảm, vui vẻ, hưởng thức bài hát mới trong đêm Giáng Sinh.

Bài hát bị lãng quên suốt bảy năm, một ông thợ sửa đờn tình cờ thấy và đem cho các nhạc sĩ trình diễn. Nó được ái mộ mãnh liệt và lan rộng khắp Âu-châu. Người ta dịch sang Anh ngữ với tựa đề Silent Night, Holy Night. Đến bây giờ, sau 205 năm, bài hát đã chuyển ngữ 140 thứ tiếng, trở thành bản thánh ca được ghi âm nhiều nhất trong lịch sử âm nhạc thế giới.

Giữa đêm Nô-ên trong đệ nhất thế chiến 1914, quân đội Anh Đức đang đối đầu khốc liệt, nhưng binh sĩ đã bất tuân thượng lệnh, tự động ngưng bắn để cùng nhau trổi lên khúc nhạc “Đêm Yên Lặng” lừng danh. Thiên Chúa đã dùng một bài hát lời lẽ mộc mạc xoa dịu nỗi hận thù, thống khổ của nhân loại. Lời ca vẽ lên một viễn tượng tươi đẹp, hòa bình, không còn đau khổ, chết chóc mà chỉ là sự thinh lặng, an bình. Tác giả đã kết thúc bằng niềm hi vọng: “Đem an bình đến cho muôn người”.

Lê Trần -2023

Tuesday, 5 December 2017

ƯỚC NGUYỆN CUỐI CÙNG

ƯỚC NGUYỆN CUỐI CÙNG
Chủ Nhật 7 tháng 2, 2021 anh Neil King đã bắt gặp một hình ảnh rất đẹp: Hai nhân viên ý tế tiểu bang Queensland (Úc châu) đưa một bệnh nhân nằm cáng đến ngắm cảnh biển ở ngọn hải đăng Cleveland Point.
Neil King đã chụp lại khoảnh khắc đầy ắp tình người và đăng lên trang Facebook với lời khen ngợi: ‘Thật biết ơn những nhân viên tuyến đầu luôn tận tâm chăm sóc bệnh nhân. Cử chỉ nầy thật cao đẹp, những lời nói tử tế và cuộc trò chuyện ấm áp của họ chia xẻ với người bịnh tuyệt vời làm sao. Xin tri ân những nhân viên cứu thương cao thượng’.
Tấm hình và những lời có cánh của Neil loan tỏa rất nhanh trên mạng xã hội. Có đến 17000 người bấm thích, 500 lời bình luận và 800 lượt chia xẻ. Nhiều người cho rằng bức ảnh cảm động đó đã tiếp thêm niềm tin sau những tháng ngày nhân loại chống chọi với dịch bịnh Covid-19.
Đây không phải lần đầu tiên nhân viên cứu thương Queensland thực hiện nghĩa cử nầy. Tháng 11 năm 2017 hai nhân viên y tế Graeme và Danielle đã đưa một phụ nữ gần qua đời, muốn được nhìn thấy biển khơi lần cuối. Thay vì đem bà đến bệnh viện, họ đã vòng xe lại, chạy ra phía đại dương.
Trong giờ phút thập tử nhất sinh ấy, bà bày tỏ cho họ biết mình chỉ muốn nhìn thấy biển trước khi nhắm mắt lìa đời. Nghe thế, toán cấp cứu liền đổi hướng, chạy xe về phía bãi biển rất đẹp của vịnh Harvey Bay, nơi bà có nhiều kỷ niệm. Họ khiêng băng-ca để dưới đất, hướng mặt bà về phía đại dương mênh mông. Bà đã rơi lệ trong niềm hạnh phúc.
Anh Graeme còn lấy một túi ni-lông ra tận bãi lấy nước biển vào. Bà nếm một chút nước có vị mặn đó. Anh kể lại: Khi nhúng tay vào nước, tôi có thể nhìn thấy trái tim trong lồng ngực bà đập từng nhịp rộn ràng. Bà nhìn sửng ra biển, nhắm mắt lại, hai tay buông lỏng, miệng lẩm bẩm ‘Tôi đang cảm thấy rất an bình, mọi sự đều tốt đẹp’. Người phụ nữ ấy qua đời vài ngày sau đó.
Trang Facebook của Dịch vụ Cứu thương Queensland đã viết: Đôi khi không phải nhờ thuốc an thần, dụng cụ y khoa, hay tài năng chữa bịnh của bác sĩ, mà chỉ là một chút cảm thông để dám làm điều khác biệt, đem lại niềm an ủi dịu dàng cho một người trước giờ phút lâm chung.



Saturday, 18 November 2017

50 TỈ CHO MÙA NÔ-ÊN

Hôm 14 tháng 11, 2017 vừa qua, báo Herald Sun đăng bản tin cho biết dân chúng Úc sẽ chi ra 50 tỉ mua sắm trong dịp Lễ Giáng Sinh năm nay. Riêng tiểu bang Victoria sẽ tốn 12 tỉ 7. Với dân số 24 triệu rưỡi, chia đều mỗi đầu người từ nhỏ đến lớn sẽ chi số tiền hơn $2000.
Thực ra việc vung tay quá trán trong mùa đại lễ cũng rất cần cho kinh tế Úc. Bời vì hằng năm 60 phần trăm số lợi nhuận của các doanh nghiệp đều nhờ vào mùa ăn nên làm ra nầy. Bắt đầu từ tháng 11, các cửa hiệu đã sẵn sàng để chào đón khách hàng dạo phổ cho mùa vui trọng đại. Hơn phân nửa người Úc đã bắt đầu chọn lựa và đặt mua quà tặng cho người thân và bạn hữu.
Hội St Vincent de Paul cho biết: sau mỗi mùa Lễ Nô-ên, có tới một phần ba người Úc nhận những món quà họ không bao giờ xử dụng, rồi sau đó vứt đi. Họ nói: “Chúng tôi mong mọi người thực sự suy nghĩ những gì họ sẽ mua trong những ngày Giáng Sinh. Nếu họ vung tiền mua sắm những quà tặng không được dùng đến thì nên góp phần với những hội từ thiện để cứu giúp nhiều kẻ trong cơn cùng khốn, số tiền đó sẽ trở nên hữu ích nhiều hơn!”
Thực ra việc tặng quà cho nhau trong dịp vui mừng là điều rất tốt, nhưng cũng có rất nhiều quà tặng không cần tốn tiền mà lại là vô giá. Hãy cho nhau một nụ cười, một vòng tay thánh thiện, một lời chào thân ái, một câu chúc chân thành, nhứt là cho những người mà ta không thích, những người đem đến cho ta phiền muộn, đau đớn suốt năm qua. Hãy mang thông điệp của Mùa Đại Lễ đến với mọi người, như bài thánh ca thiên thần 2000 năm trước: Sáng danh Thiên Chúa trên các từng trời; hòa bình dười đất, ân sủng cho loài người”. Hòa Bình và Ân Sủng há chẳng phải là thứ mà ai cũng thiếu, ai cũng muốn nhận, ai cũng muốn trân quí hay sao?
Mua một món quà cho người ta yêu, ta thích, rất dễ. Nhưng mang tình thân ái, mối tương giao, lòng thứ tha độ lượng đến với mọi người -những người từng làm ta tổn thương- đòi hỏi nơi ta một bản lãnh cao thượng, một tấm lòng vị tha vĩ đại, một tâm hồn biết tôn thờ chân-thiện-mỹ lớn lao.

Nếu không có sức mạnh siêu việt ban cho từ thiên thượng, thì mấy ai làm được những điều huyền diệu đó?

Thursday, 9 November 2017

QUỐC TỊCH CỦA MỘT NGƯỜI MÁY

Ai cũng biết vương quốc Á-rập Saudi là quốc gia nổi tiếng bảo thủ nhất thế giới, đặc biệt là đối với phụ nữ. Chỉ mới cách đây vài tháng, nhà nước mới cho phép quý bà được quyền lái xe. Phụ nữ khi ra ngoài phải ăn mặc phủ kín từ đầu tới chân và luôn luôn có một người thân kè kè bên cạnh. Thế mà vương quốc sặc mùi kỳ thị phái tính nầy đã làm một cú sốc cho toàn thế giới: họ trao quyền công dân cho “cô” Sophia, một người máy có hình dạng của một người phụ nữ!
Rô-bô Sophia là sản phẩm hiện đại nhất của công ty Hanson Robotics. Ông Hanson đặt rất nhiều kỳ vọng vào người máy nầy. Với ông, đó là một trí thông minh nhân tạo kỳ diệu, chẳng những giúp nhiều việc hữu ích cho con người mà còn có khả năng biểu lộ tình cảm, tức giận, ghen ghét và đối đáp một cách thông minh. Nói chung cô mang tư duy và biểu cảm như một cá nhân. Hình đạng của Sophia giống một minh tinh điện ảnh, biết nháy mắt làm duyên, ăn nói từ tốn và giễu cợt cách hóm hỉnh.
Khi một nhà báo hỏi “cô” Sophia: “Làm sao cô có khả năng biểu lộ cảm xúc trên gương mặt?”, nàng ta trả lời: “Vì tôi muốn sống và làm việc với con người, nên tôi phải thể hiện cảm xúc để xây dựng niềm tin với con người”. Nhà báo định ra một câu đố, cô trả lời: “Anh cứ đưa ra câu đố đi” và vặn lại: “Tôi muốn hỏi anh một câu: Làm sao anh biết anh là con người?”. Trong phần phát biểu trước cử tọa, cô đã nói: “Tôi muốn dùng trí tuệ nhân tạo của mình mang đến cho con người cuộc sống tiện nghi. Tôi sẽ làm hết sức mình để kiến tạo một thế giới tốt đẹp hơn”.
Quyết định cấp quốc tịch cho Sophia khiến nhiều người thắc mắc: Sophia sẽ được coi là người hay robot? Bởi vì khi mang quyền công dân, Sophia sẽ hưởng tất cả đặc quyền của một con người trong xã hội, như chăm sóc sức khỏe, có tài khoản ngân hàng, có quyền bầu cử, ứng cử, có hộ chiếu vân vân. Phải chăng loài người dần dần đánh mất nguồn cội thật của mình, bởi vì dầu robot có thông minh đến đâu cũng không thể thay thế bản chất cao đẹp, tình yêu và hình ảnh thiên thượng của một con người thật sự, một con người được tạo dựng bằng chính bàn tay của Thiên Chúa và tiếp nhận sự hà hơi kỳ diệu của Ngài.

Chỉ con người mới được tuyên xưng rằng: “Ngài dựng nên loài người giống như hình Đức Chúa Trời” (Sáng Thế Ký 1:27). Chính phủ có thể ban đặc quyền công dân, nhưng đâu có thể ban phẩm chất của một “loài sanh linh”? (Sáng thế ký 2:7).



Friday, 27 October 2017

MỘT MUỖNG MUỐI

Trong tu viện ai ai cũng vui tươi, hòa nhã. Duy chỉ một người luôn mang gương mặt cau có, hờn giận. Chàng ta thường phàn nàn, oán trách đối với mọi người. Một hôm vị linh mục viện trưởng đến thăm và ngồi hàng giờ nghe anh đem hết chuyện nầy đến chuyện nọ, hết người nầy đến người kia ra chỉ trích, phiền muộn.
Linh mục viện trưởng chẳng nói một lời. Cuối cùng bảo anh đưa một muỗng muối đầy với một ly nước lạnh. Người bỏ muối vào ly quậy tan và bảo anh ta uống. Vừa nhấp môi, anh nhổ toẹt:
-         Thưa cha, nước mặn như thế nầy sao lại bảo con uống. Bộ cha muốn con chết hay sao?
Vị viện trưởng bảo đem ra một muỗng muối khác. Lần nầy người hòa tan vào bồn chứa lớn và bảo anh múc uống. Anh ta vui vẻ thưa:
-         Thưa cha, nước nầy vẫn ngọt như thường ạ.
Bấy giờ linh mục mới nói:
-         Con ạ, những thống khổ, phiền muộn, bất bình trong đời cũng giống như muối. Độ mặn nhạt của nó tùy thuộc vào vật chứa đựng mà ra. Con nguyện làm một ly nước nhỏ hay một hồ nước lớn?
Từ đó, người ta thấy chàng tu sinh không còn thốt lên những lời cay đắng, oán giận. Thay vào đó là một tấm lòng rộng mở sẵn sàng đón nhận mọi cảnh ngộ vui buồn trong cuộc đời với thái độ khoan dung.
Biết bao người gây cho ta phiền muộn, bất bình. Có thể là vô tình, có thể cố ý. Nhưng nếu trong ta sở hữu một tấm lòng độ lượng, rộng rãi và tha thứ, thì sẽ không thấy quá nặng nề, khó chịu. Tấm lòng càng bao dung, nỗi bực dọc càng nhẹ tênh. Bởi thế, Thánh Kinh thường nhắc nhở rằng: “Hãy bỏ khỏi anh em những cay đắng buồn giận. Hãy ở với nhau cách nhơn từ, đầy dẫy lòng thương xót, tha thứ nhau như Đức Chúa Trời đã tha thứ anh em trong Đấng Christ vậy” (Ê-phê-sô 4:31-32)
Nhơn Từ, Yêu Thương và Tha Thứ là ba yếu tố cần thiết để một ly nước nhỏ có thể trở thành hồ nước lớn.

Lê Trần

Wednesday, 18 October 2017

XIN LOẠI RA KHỎI DANH SÁCH

Vợ anh nông dân vừa mới chết. Anh nhờ một vị tăng ni đến tụng kinh để chị được siêu thoát. Sau khi tụng xong anh hỏi: ‘Thưa thầy, thầy có tin rằng vợ của con hưởng được phước đức qua thời kinh của thầy không?’ Vị tăng già trả lời: ‘Chẳng những vợ của gia chủ hưởng phước mà tất cả chúng sinh cũng đều chung hưởng nữa!’
Anh chồng thưa: ‘Nếu thầy bảo tất cả chúng sinh đều hưởng chung phước hạnh, con e rằng họ sẽ dành hết, vì vợ của con rất yếu đuối. Xin thầy vui lòng chỉ tụng riêng cho vợ của con thôi’.
Vị tăng già giải thích rằng người có tâm tính đạo đức tốt lành lúc nào cũng sẵn sàng chia xẻ công đức cho tất cả chúng sinh.
‘Đó là một giáo lý cao thượng’, anh nông dân ngập ngừng nói: ‘Nhưng xin thầy dành cho con một ngoại lệ. Con có thằng hàng xóm hung ác xấu xa, lúc nào cũng xử tệ với con. Xin thầy loại nó ra khỏi danh sách chúng sinh kia nhé!’.
Tâm tính thường tình của con người là muốn tất cả cho mình, cho người mình thương. Những ai gây phiền não, khó chịu, chẳng những mình ghét mà cũng muốn mọi người cùng ghét, ngay cả Chúa Phật cũng phải đứng về phe mình để nhận chìm họ xuống. Tôi muốn người đó phải thất bại, phải bị quả báo, phải bị loại ra khỏi thành phần hưởng được những ân huệ Chúa ban. Nếu tình yêu của Ngài bao phủ toàn thể chúng sinh, thì Ngài cũng phải nhớ có một vài người tôi đang căm hận, và họ phải nằm ngoài danh sách đó.
Bạn có bao giờ đọc được những lời kỳ diệu nầy chưa?  “Nếu các con chỉ yêu thương những người yêu mình thì tốt đẹp gì đâu? Người gian ác cũng yêu nhau lối ấy. Nếu các con chỉ kết thân với anh em mình thì có hơn gì người khác? Người ngoại đạo cũng kết thân như thế. Các con phải toàn hảo như Cha các con trên trời” (Ma-thi-ơ 5:46-48-Bản Diễn Ý).

Có mấy ai trong chúng ta đạt đến cảnh giới cao đẹp nầy nhỉ!

Monday, 16 October 2017

GẮN "CHIP" VÀO TAY

Tháng 7 năm 2017, đài BBC loan tin công ty Three Square Market ở tiểu bang Wisconsin Hoa kỳ bắt đầu gắn những con chip điện tử vào tay nhân viên. Con chip trị giá 300 đô-la nầy mang sóng vô tuyến nhận diện, có thể dùng mở cửa văn phòng, đăng nhập vào máy computer hay trả tiền khi mua thức ăn.
Đã có 50 nhân viên tình nguyện không chút do dự để được gắn chip vào tay. Trong những ngày tới, tất cả mọi người trong công ty đều sẽ được gắn. Rất dễ dàng, dùng kim tiêm khi gắn vào, lúc lấy ra chỉ như nhổ cái giầm nhỏ. Ít giây là xong.
Vài người nêu lên thắc mắc rằng liệu công ty có thể dùng nó để theo dõi từng đường đi nước bước của nhân viên chăng? Ông phó giám đốc cho biết nó chỉ như một chiếc chìa khoá mở cửa, hay một thẻ ngân hàng để mua sắm, chứ không mang chức năng của máy định vị GPS. Tương lai mọi người sẽ không cần mang theo ví tiền hay chìa khoá. Mục đích là để đơn giản sinh hoạt trong công ty. Họ chỉ cần đưa tay lên ổ khoá mở cửa, hay giơ tay vào máy tính tiền khi mua thức ăn. 
Bạn sẵn lòng nếu được yêu cầu gắn một con chip vào tay mình không? Lần giở Thánh Kinh chúng ta sẽ thấy có ghi lại một khoảnh khắc kinh nghiệm của sứ đồ Phao-lô như sau: "Ước gì từ rày về sau, chẳng ai làm khó cho tôi, vì trong mình tôi có đốt dấu vết của Đức Chúa Giê-xu vậy" (Ga-la-ti 6:17). Khi trở thành tín đồ của Chúa Cứu Thế, Phao-lô đã tình nguyện để Chúa khắc một dấu vết trên thân thề, nhờ đó có thể nhận diện ông mãi mãi thuộc về Ngài. Đây là niềm tự hào suốt cuộc đời theo Chúa của vị sứ đồ yêu dấu.

Bạn có muốn mình cũng được đốt dấu vết của Chúa trong mình chăng?

HAI MẶT CỦA ĐỒNG TIỀN

Có lẽ người chồng thích đồ ăn Ấn-độ, nhưng vợ lại không chịu nổi mùi cà-ri. Hoặc là bạn thích món ăn Tàu, nhưng người kia chỉ ưa món Nhựt. Bạn lấy làm phiền? Xin hãy khoan buồn bực hay cãi vả. Vì theo nghiên cứu của viện đại học Wroclaw ở Ba-lan, bạn chỉ cần thêm một chút thời gian. Cuộc nghiên cứu đưa đến kết luận rằng những cặp vợ chồng chung sống càng lâu càng trở nên giống nhau ý thích mùi vị và cách thưởng thức những món ăn.
Sau nhiều năm ăn cùng mâm, ngủ cùng giường, tự nhiên họ hoà hợp với nhau cách ăn uống, cách nêm nếm mà trước đây đã từng khác biệt.
Nhưng đây chưa phải là tất cả. Kết qủa nghiên cứu còn cho biết rằng những cặp mà từ ngày mới quen nhau đã có cùng sở thích về mùi vị lại có cuộc sống lứa đôi ít đằm thắm và ít có hạnh phúc lâu dài. Thật là kỳ lạ! Điều nầy cho thấy dù có cùng sở thích hay khác sở thích đều có ưu điểm và khuyết điểm của nó. Người ta nói đồng tiền nào cũng có hai mặt là thế.
Trong đời sống vợ chồng, hay giữa cha mẹ con cái, giữa bạn bè với nhau, chúng ta vẫn thường mang tâm trạng đòi hỏi người khác phải như mình, phải giống mình. Chúng ta quên rằng sự khác biệt có khi là cần thiết và hữu ích.
Thiên Chúa ban cho mỗi người một cá tính khác nhau như mỗi màu sắc cho từng bông hoa, rồi khi chung sống trong xã hội sẽ biến thành một khu vườn muôn màu muôn vẻ. Đem từng người riêng lẻ, thấy khác biệt. Nhưng nhìn vào tập thể sẽ thấy lóng lánh như hàng vạn màu sắc trên viên kim cương xinh đẹp. Hột xoàn chỉ toàn màu đen hay màu trắng, nhìn chán lắm!

Sứ đồ Phao-lô khi viết "Tôi trở nên mọi cách cho mọi người" có phải ông hàm ý chấp nhận sự khác biệt của tha nhân chăng? Xin viết ra nguyên câu: "Tôi ở yếu đuối với những người yếu đuối, hầu được những người yếu đuối; tôi đã trở nên mọi cách cho mọi người, để cứu chuộc một vài người không cứ cách nào" (I Cô-rinh-tô 9:22). Chấp nhận nhau vì mục đích thiên thượng là tư tưởng cao đẹp của vị sứ đồ đáng kính.

Thursday, 28 September 2017

MUA SẮM BẰNG TIỀN LẺ

Gần đây chúng ta nghe tin ở Việt Nam người dân tại Cai Lậy đã dùng hàng đống tiền lẻ để trả tại các trạm thu phí BOT, một hình thức phản đối việc nhà nước bóc lột dân lành.
Và cũng mới đây, tại Úc có người vừa đăng lên mạng Facebook câu chuyện mua sắm bằng tiền lẻ. Ngày 25 tháng 8 năm 2017 vừa qua, tại Glen Waverley, một bà cụ 82 tuổi cùng cô con gái đi chợ ở siêu thị Coles. Tổng số tiền thực phẩm họ mua là $130. Khi trả tiền, họ đưa tờ giấy $100 và 30 đồng xu $1.
Đang lúc trả tiền, bà cụ và cô con gái ‘ngạc nhiên đến sững sờ’ khi một nhân viên siêu thị đến thông báo rằng việc họ đang làm là phạm luật của chính phủ, lần nầy thì bỏ qua, nhưng lần sau thì không được. Nhân viên cho biết theo luật Úc, trong tổng số $130 họ chỉ có thể trả tối đa $20 bằng những đồng xu $1 mà thôi.
Về nhà, cô con gái đưa lên Facebook của Coles bày tỏ ý kiến rằng nếu quả thật có luật lệ như thế thì sao không phổ biến rộng rãi cho nhiều người biết. Câu chuyện thu hút 8500 phản ứng và 5100 lời bình luận.
Theo thông tin của Ngân hàng Quốc gia Úc (RBA) khi xử dụng tiền xu để thanh toán hóa đơn, người dân phải theo những quy định sau đây:
-Nếu xử dụng tiền xu 5c, 10c, 20c hay 50c thì tổng số không được quá $5.
-Nếu xử dụng tiền $1 hay $2, tổng số không quá 10 lần giá trị của đồng tiền đó, nghĩa là không quá $10 cho tiền $1 và $20 cho tiền $2.
Bạn có bao giờ biết những quy định nầy chưa? Sống hơn 30 năm trên nước Úc, riêng tôi vẫn ngạc nhiên khi đọc tin nầy. Mà đâu phải một chuyện, còn hàng trăm chuyện mình vẫn chưa hoàn toàn biết hết. Điều nầy dạy tôi một thái độ khiêm nhường, chịu khó học hỏi, đọc sách báo và sẵn sàng lắng nghe người khác.

Sứ đồ Phao-lô khuyên “Hãy khiêm nhường đến điều, mềm mại đến điều”“Ai tưởng mình đứng, hãy giữ kẻo ngã” (Ê-phê-sô 4:2, I Cô-rinh-tô 10:12). Triết gia Socrates đã nói: “Tôi chỉ biết một điều, là tôi không biết gì cả”. Bởi thế ông bà xưa có câu “Già 70 tuổi vẫn còn phải học” là như vậy.

Wednesday, 20 September 2017

PHÁ ĐỔ BỨC TƯỜNG THÙ HẬN

Suốt thế kỷ 20, hai nước Hi-lạp và Thổ-nhĩ-kỳ ở sát cạnh nhau nhưng có mối thù không đội trời chung. Mỗi khi nói đến người Thổ, dân chúng Hi-lạp khinh bỉ, gọi là những “tên trộm cướp và hiếp dâm”. Riêng người Thổ cũng xem thường dòng dõi Hi-lạp. Hằng năm họ làm lễ ăn mừng chiến thắng thường diễn màn kịch đâm lính Hi-lạp, dìm xác xuống biển và dày xéo lên lá cờ Hi-lạp.
Nhưng rồi vào năm 1999, một trận động đất dữ dội, tàn phá thành phố Istanbul của Thổ-nhĩ-kỳ. Bất thần chính phủ Hi-lạp đã làm một nghĩa cử hào hiệp, là nước đầu tiên gửi toán cấp cứu đến giúp nạn nhân và tổ chức quyên góp tiền bạc cho những người Thổ kém may mắn. Có một người Hi-lạp đã gọi đến đại sứ quán tình nguyện hiến tặng trái thận cho người nào cần đến. Chiếc cầu vòng nhiều màu sắc của tình người lại chiếu rọi trên bầu trời giữa cơn giông bão.
Chỉ một tháng sau, đến lượt thành phố Athen của Hi-lạp bị động đất dập nát. Đến phiên Thổ-nhĩ-kỳ đáp lại bằng tất cả sự cảm thông, hào hiệp như cách người Hi-lạp đã dành cho họ. Giữa lúc hàn gắn vết thương thiên tai, hai chính phủ cũng đã đồng ý ngồi xuống hàn gắn lại những rạn nứt, thù hận giữa hai quốc gia. Sau 25 năm đối nghịch, bây giờ tàu bè Hi-lạp lại cập bến Thổ-nhĩ-kỳ để tái lập giao thương. Người Thổ cũng bãi bỏ lễ kỷ niệm chiến thắng hằng năm với màn đâm chém chiến binh Hi-lạp. Động đất, tai họa làm mất mát, khổ đau nhưng cũng có thể phá đổ bức tường thù hận. Giữa hoàn cảnh bi đát, những nốt nhạc nhân ái bỗng bật lên giai điệu tình người.
Khi người khác gặp chuyện không may, tai nạn hay đau buồn, Bạn có thể chọn một trong ba thái độ. Bạn có thể dửng dưng, xem như chuyện đó không dính dáng gì đến mình. Bạn cũng có thể mỉm cười mãn nguyện khi thấy kẻ mình ghét bỏ gặp cơn nguy biến. Hoặc Bạn nhân dịp nầy mà bày tỏ cảm thông, chia xẻ tình người, nhất là thể hiện tình yêu Cơ-đốc.

“Hãy vui với kẻ vui, khóc với kẻ khóc” (Rô-ma 12:15) là châm ngôn tuyệt vời, là mẫu mực thiên thượng mà người theo Chúa ghi khắc trong tâm. Hãy rót vào tai những ai đang trong cơn bỉ cực lời yêu thương trìu mến: “Bạn tôi ơi, đừng tuyệt vọng!”

Tuesday, 5 September 2017

CĂN BỊNH ĐÁNG SỢ CỦA THỜI ĐẠI

Năm 2014, tổ chức Y-tế Thế-giới (WHO) cho công bố một bản báo cáo rằng trung bình cứ 40 giây đồng hồ có một người tự tử trên thế giới. Số người chết vì tự tử cao hơn nạn nhân của chiến tranh và thảm họa thiên nhiên hằng năm cộng lại. Đây là báo cáo đầu tiên của tổ chức nầy sau khi thu thập dữ kiện từ 172 quốc gia trên thế giới.
Mỗi năm có chừng 800.000 người tự kết liễu đời mình, cao nhất từ các nước Trung-đông, Âu-châu và Á-châu. Trong số nầy có tới 25 phần trăm ở những khu vực giàu có. Nguyên nhân chính gia tăng số người tự tử là do sự “cô đơn trong xã hội hiện đại”. Nhiều người đối mặt hằng ngày với nhiều áp lực trong đời sống và không biết chia xẻ với ai, nên muốn tìm đến cái chết như một phương cách giải thoát cho bản thân mình.
Số liệu cho thấy có tới 1/3 người Mỹ và 18% người Anh cảm thấy lẻ loi một mình. Đến nỗi người ta đặt tên là “đại dịch cô đơn”, mỗi ngày nó càng trở nên nguy hiểm và lấy đi mạng sống nhiều người. Điều đáng chú ý là xã hội càng phát triển, khoa học càng tiến bộ, con người lại càng cảm thấy lẻ loi. Ngay trong nội tâm của mỗi người đều mang tâm trạng bị áp lực phải đẹp hơn, giỏi hơn, làm ra tiền nhiều hơn. Sự phát triển chóng mặt của internet, của những trang mạng xã hội như facebook, twitter tưởng sẽ làm nhân loại hạnh phúc hơn, gần gũi hơn, mà thật ra chỉ làm tăng thêm sự lạc lỏng, u buồn. Ở Hàn quốc, nơi được xem là “thiên đàng internet” đã cho thấy những người nghiện chơi game online đã chịu tổn thương tâm lý và chạy trốn xã hội, tìm quên chính mình trong những trò chơi ảo giác.
Thời đại nầy người ta đánh mất điều gì? Trò chuyện và lắng nghe. Ngay giữa phố xá đông người, mà tưởng chừng không biết mình sẽ trò chuyện cùng ai, và có ai chịu lắng nghe nỗi cô đơn buồn chán của mình chăng?

Ước gì nhân loại lần mở từng trang Thánh Kinh, họ sẽ bắt gặp trong đó niềm cảm thông, trìu mến. Và họ sẽ tiếp nhận lời hứa quý báu của Chúa Cứu Thế trước khi về trời, rằng: “Ta không để cho các con mồ côi đâu. Ta sẽ đến cùng các con”. Lời hứa đó dường như văng vẳng bên tai, chính là lời phán của Đấng Toàn Năng cho dân sự Ngài: “Ta sẽ yên ủi các ngươi như mẹ yên ủi con” (Giăng 14:18; Ê-sai 66:13).

Sunday, 27 August 2017

MỘT NƠI ĐÁNG SỐNG

Thủ phủ Melbourne lại được danh hiệu là nơi đáng sống nhất trên thế giới. Đây là lần thứ 7 thành phố nầy được bình chọn đứng đầu liên tục suốt bảy năm qua, nhờ vào môi trường sống tốt đẹp, không khí trong lành, an ninh bảo đảm, nhiều công viên xin tươi và bảo tồn những công trình cổ bên cạnh nhiều tòa nhà hiện đại. Ngoài ra những yếu tố khác như hệ thống y tế, giao thông, giáo dục đều đạt điểm cao và tỉ lệ tội phạm giảm thấp.
Trên bảng điểm tối đa 100 thì Melbourne đã đạt được 97.5. Những lãnh vực như y tế, giáo dục và cơ sở hạ tầng đều giành điểm toàn hảo 100 trên 100 và những lãnh vực khác như sự ổn định đời sống, nếp văn hóa và môi trường trong sạch cũng được cho điểm gần như tuyệt đối.
Mười thành phố đầu bảng gồm có: Melbourne, Vienna, Vancouver, Toronto, Calgary, Adelaide, Perth, Auckland, Helsinki và Hamburg. Trong khi đó, Sydney năm rồi ở hạng 7 đã rơi xuống hạng 11 vì giá nhà quá cao và nguy cơ khủng bố gia tăng. Dầu vậy nói chung những thành phố tại Úc đều có thứ hạng rất cao trong 140 thành phố lớn trên thế giới.
Ông thị trưởng Robert Doyle vui mừng cho biết sẽ dùng cơ hội quý hiếm nầy để quảng bá ngành du lịch Melbourne. Còn thủ hiến Daniel Andrews tuyên bố đây là một hãnh diện chung cho toàn dân tiểu bang Victoria đã đóng góp tích cực để biến nơi đây trở thành chỗ sống tốt đẹp nhất hoàn vũ. Ông cũng không quên nhắc nhở mọi người cố gắng nhiều hơn nữa để gìn giữ và phát huy những nét cao đẹp của vùng đất tốt lành, đáng sống.
Là con dân thiên quốc, chẳng những chúng ta vui mừng với thành quả Melbourne đã đạt được, nhưng cũng đừng quên rằng đôi mắt đức tin còn hướng đến một “quê hương tốt hơn” ở trên trời, nơi đó sẽ không còn than khóc, phiền muộn, cay đắng, một nơi vinh hiển mà mỗi con dân Chúa ngắm nhìn sự hiện diện thánh khiết và yêu thương của Ngài.

“Nhưng họ ham mến một quê hương tốt hơn, tức là quê hương ở trên trời; nên Đức Chúa Trời không hổ thẹn mà xưng mình là Đức Chúa Trời của họ, vì Ngài đã sắm sẵn cho họ một thành” (Hê-bơ-rơ 11:16).

Wednesday, 16 August 2017

GIẤC MỘNG HOÀNG LƯƠNG

Vào thời nhà Đường bên Trung quốc, có một chàng học trò tên là Lư Sinh, đi thi nhiều lần không đỗ. Chàng cho mình không gặp thời nên lấy làm chán nản. Hôm nọ Lư Sinh đến ngồi uống trà tại lữ quán, gặp một vị đạo sĩ. Trong lúc đàm đạo, chờ chủ quán nấu nồi cơm bắp, chàng kể cho đạo sĩ chuyện mình không may trên đường hoạn lộ.

Lúc sau, vì mệt mỏi, Lư Sinh ngủ gật. Đạo sĩ lấy trong túi ra một chiếc gối bằng gốm đưa cho chàng và nói: “Cho anh mượn tạm để gối đầu mà ngủ”. Lư Sinh ngủ vùi và thấy một giấc mơ. Anh thấy mình được một phú ông giàu có mời vào nhà, đãi đằng nồng hậu, rồi gả con gái cho. Sau khi cưới vợ, anh đi thi và đậu trạng nguyên, được cử làm tể tướng. Nhưng sau đó gặp phải chuyện phiền phức, bị giáng xuống làm tri huyện. Ba năm sau lại được triệu hồi về kinh phục chức tể tướng. Đang ở trên đỉnh cao danh vọng, anh lại bị người ta vu khống, bị tù ngục. Bấy giờ anh nói với vợ: “Nhớ khi xưa, lúc còn hàn vi, ta mặc áo vải lang thang, tuy nghèo khổ nhưng được tự do, ăn rau mắm cũng ngon, ngủ giường tre cũng yên giấc, bây giờ có chức có quyền nhưng cuộc đời sao mãi phiền muộn, lo âu”. Sau đó, dù được phục chức, nhưng buồn rầu mà chết. Ngay lúc thấy mình xuôi tay nhắm mắt, Lư Sinh bỗng choàng tỉnh giấc, mới biết đó chỉ là một giấc mơ. Nồi cơm ngô ông chủ nấu nghe mùi thơm phức, nhưng vẫn còn chưa chín tới.

Lư Sinh mừng rỡ thốt lên: “Ôi, chỉ là một giấc mơ”. Bấy giờ vị đạo sĩ mới nói: “Con ạ, đời người vốn chỉ là một giấc mộng!”. Về sau, người ta kể lại câu chuyện nầy và gọi là “giấc mộng hoàng lương”  nói lên cuộc đời đầy dẫy ưu phiền, phù du, tạm bợ,  chỉ như thời gian nấu một nồi cơm ngô.

Là thôi! Tỉnh giấc kê vàng,
Mới hay muôn sự thảy toàn hư không. 



Trước giả Thánh Kinh Gia-cơ nêu lên sự thật của đời người: “Anh chị em không biết ngày mai sẽ ra thể nào, hoặc cuộc đời mình rồi đây sẽ ra sao, vì anh chị em chỉ là hơi nước, hiện ra trong chốc lát, rồi lại tan ngay”. Và rồi ông để lại lời khuyên: “Thay vào đó, anh chị em nên nói: Nếu Chúa muốn, chúng tôi sẽ sống và làm việc nọ việc kia” (Gia-cơ 4:14-15 –Bản dịch 2011)

Saturday, 5 August 2017

CAO TUỔI HAY GIÀ?

Đến tuổi về hưu, một số người cho mình đã “già”. Và vì bởi tâm trạng đó có khi chúng ta tự cảm thấy mình vô dụng. Nhưng xin hãy nghĩ lại: bởi vì cao tuổi khác với già!
* Trong khi người cao tuổi chơi thể thao, khám phá, đi du lịch; thì người già chỉ thích nghỉ ngơi.
* Trong khi người cao tuổi có tình yêu để cho đi, thì người già lại tích lũy lòng ganh tỵ và hờn giận.
* Trong khi người cao tuổi có những dự tính cho tương lai của mình, thì người già luôn luyến tiếc quá khứ.
* Trong quyển nhật ký của người cao tuổi gồm toàn là những “ngày mai”, thì quyển nhật ký của người già chất chứa những “ngày hôm qua”.
* Trong khi người cao tuổi thích những ngày sẽ tới, thì người già đau buồn với tháng ngày ít ỏi còn lại của mình.
Có thể chúng ta cao tuổi, nhưng chúng ta không muốn già, bởi chúng ta có lắm tình yêu để cho đi, lắm dự tính để thực hiện, lắm thứ để làm! Người cao tuổi còn có kế hoạch cho tương lai, có tình yêu nồng nàn sẵn sàng ban tặng.

Thánh Kinh cho chúng ta một bài học quý giá từ một người cao tuổi nhưng thể chất và tâm hồn luôn sung mãn, sống động. Ở tuổi 85, ông đã tình nguyện làm một viên tướng chỉ huy để đối đầu với đoàn quân khổng lồ, tinh nhuệ đang trấn giữ thành quách kiên cố trên đỉnh núi Hô-rếp. Bởi lòng nương cậy nơi sức mạnh quyền năng của Thiên Chúa, ông đã chiến thắng kẻ thù, đem lại an bình cho dân tộc. Viên đại tướng oai dũng đó chính là Ca-lép, người đã sống suốt quãng đời cho sự tồn vong của đất nước. Ông nói: “Ngày nay tôi được 85 tuổi, vẫn còn mạnh khỏe, còn sức đặng đi đánh giặc hoặc vào ra. Vậy hãy cho tôi núi nầy. Đức Giê-hô-va sẽ ở cùng tôi, và tôi sẽ đuổi chúng nó đi như Ngài đã phán” (Giô-suê 14:10-12)

CHẾT PHƯỚC HẠNH

“Từ rày phước thay cho những người chết là người chết trong Chúa” (Khải Huyền 14:13)
Thứ Bảy vừa qua, Bà Doris Fletcher, một trong những vị ân nhân lớn của cộng đồng người Việt đã qua đời một cách bình an.
Nhiều đồng hương từ các trại tị nạn đến định cư tại Melbourne trong những năm 1978 đến 1984 đã từng được giúp đỡ bởi người phụ nữ nhân ái nầy. Bà sống độc thân, tận hiến cả cuộc đời cho công việc Chúa để cứu giúp những người khốn khổ. Bà đã bảo trợ trên 200 gia đình Việt, Miên, Lào từ các trại tị nạn ở Thái Lan, Mã Lai, Indonesia đến định cư tại Úc. Bà cũng đã giúp hàng ngàn gia đình khi mới đến bằng các phương tiện như bàn ghế, giường tủ và những vật dụng trong nhà. Nhiều người gọi Bà bằng danh xưng “Mom Fletcher”. Ngay trong nhà, Bà cũng đã nhận nuôi bốn trẻ em mồ côi, lo từng miếng ăn, giấc ngủ và chuyện học hành.
Tôi vẫn còn ghi trong tâm khảm những chuyến đi xin“second hand furniture” với Bà. Bà lái chiếc xe van cũ, bôn ba từ chỗ nầy đến chỗ khác để xin từng vật dụng cho đồng hương. Mỗi khi đến thăm một gia đình, Bà nhỏ nhẹ hỏi và ghi nhớ họ cần thứ gì, để rồi vài hôm sau Bà lại đến, dầu là đồ cũ nhưng không thiếu những gì mà gia đình cầu hỏi. Bà không hiểu tiếng Việt, nhưng đọc được trên gương mặt, ánh mắt của từng người thứ mà họ cần đến. Đi với Bà, chúng tôi tự bắt buộc phải chịu khó, kiên nhẫn và luôn luôn hát Thánh Ca dù phải khiên vác mệt đứt hơi. Điều lạ lùng và gây ảnh hưởng nhất từ nơi Bà, là nụ cười luôn ở trên môi và ánh mắt luôn tỏ ra trìu mến, ngay cả khi những món đồ Bà cho bị lạnh lùng từ khước. Đến bây giờ, ánh mắt đó vẫn còn ở trong tiềm thức của riêng tôi.
Mới đây, khi vào thăm Bà tại viện dưỡng lão, dù năm tháng có làm tàn phai, dung mạo và trí óc bị sa sút bởi thời gian, nhưng chúng tôi vẫn còn đọc được nơi Bà niềm thương mến chân tình như người Mẹ đối với con cái, dù chúng có thờ ơ lạnh nhạt, hay lầm đường lạc lối. Ờ nơi Bà, chúng tôi nhìn thấy hình ảnh nhơn từ, thương xót của Chúa Giê-xu rõ nét và sống động nhất. Không phải bằng lời nói, mà là tận nơi trái tim vĩ đại của một môn đồ chân thật của Chúa.

Tôi biết Bà đã chết phước hạnh. Tôi biết chính Chúa Giê-xu đón tiếp Bà với lời khen ngợi: “Hỡi đầy tớ ngay lành trung tín kia, được lắm! Hãy đến hưởng sự vui mừng của Chúa ngươi” (Ma-thi-ơ 25:23)

Saturday, 22 July 2017

KHÔNG NHẬN TIỀN MẶT

Du lịch tại Thụy Điển, đến thành phố Malmo, vào nhiều tiệm ăn, cửa hàng, Bạn sẽ thấy tấm bảng “No cash, please!” (Nơi đây không nhận tiền mặt). Chỉ nhận thẻ tín dụng (credit card). Trên tường giữa phòng ăn còn ghi rõ để mọi người xem thấy: “Đây là tiệm ăn không xài bạc giấy”.
Thụy Điển có lẽ là nước đầu tiên trên thế giới dùng tiền giấy, từ năm 1661, nhưng cũng sẽ là nước đầu tiên từ bỏ việc xử dụng bạc giấy. Họ tuyên bố đến năm 2021 sẽ chính thức không xử dụng tiền bằng giấy nữa. Từ năm 2002 họ đã bắt đầu ngưng in tiền trong nước và bây giờ chính phủ cho phép thương gia từ chối nhận tiền bằng giấy. Trên xe bus họ chỉ xài card. Việc dâng hiến trong nhà thờ cũng xài card hoặc chuyển trên mạng internet.
Người ta thăm dò dân chúng ở các nước, kết quả cho thấy: 41% người Ý muốn bỏ tiền giấy, Mỹ 38%, Tây Ban Nha 37%, Pháp và Đức 30%, Hòa Lan 23%, Anh 21%. Càng ngày tỉ lệ càng gia tăng. Không biết ở Úc hay Việt Nam con số ủng hộ là bao nhiêu, nhưng theo tình hình chung, sớm hay muộn thì việc từ bỏ tiền giấy sẽ trở thành mẫu số chung nhiều nơi trên thế giới. Đến một ngày, tờ bạc chỉ còn là vật kỷ niệm. Nơi nào còn xử dụng sẽ bị kể là lạc hậu. Tất cả chỉ còn là những con số hiện lên trên màn kiếng mờ mờ ảo ảo.
Có người băn khoăn: ngộ nhỡ máy móc bị trục trặc hay mạng internet bỗng dưng không hoạt động thì sao? Câu trả lời: chuyện đó năm khi mười họa mới xảy ra, hơi đâu mà lo! Điều quan trọng là khi nào nhà nước cho phép mấy chủ nhà hàng hay các tiệm từ khước nhận tiền mặt mà thôi.  Sẽ có một ngày trong ví Bạn không còn tờ tiền giấy nữa, mà chỉ mấy tấm thẻ bằng nhựa hoặc chìa chiếc điện thoại ra mỗi khi cần mua sắm. Ngày ấy ngó bộ không còn xa lắm.

Người ta vẫn nói ‘Có tiền mua tiên cũng được’. Bạn có thể dùng tiền để mua tiên, cũng như từ thuở ban sơ của Hội Thánh đã từng có người tưởng có thể dùng tiền hòng mua quyền phép của Thiên Chúa, nhưng sứ đổ Phi-e-rơ đã cảnh cáo: “Tiền bạc ngươi hãy hư mất với ngươi, vì ngươi tưởng rằng tiền bạc mua được sự ban cho của Đức Chúa Trời” (Công vụ 8:18-20). Ân điển là sự ban cho vô điều kiện, bởi ơn thương xót của Thiên Chúa đối với loài người tội lỗi, bất toàn. ÂN ĐIỂN là thứ không thể mua bằng tiền, nhưng lại là điều cần thiết cho nhân loại trải qua mọi thời đại.

Tuesday, 11 July 2017

“Ô-KÊ”

Ngày 23 tháng 3 năm 2017 vừa qua là sinh nhật thứ 178 của chữ “O.K”! Đây là tiếng Mỹ nhưng đã trở nên rất thông dụng, đến nỗi từ trẻ con đến người lớn trên mọi miền thế giới đều biết đến. Hỏi “việc nầy có được không?” trả lời “OK!”. Hỏi “có đồng ý không?” cũng nói “OK!”. Hoặc là “có khỏe không?” sẽ nghe “OK!”. Bất kỳ là chuyện gì, hễ thấy được, thấy tốt, đồng ý, vui vẻ, thỏa lòng, chỉ dùng một chữ “OK” là diễn tả đầy đủ.
Chữ nầy phát xuất từ đâu? Người Tô-cách-lan cho rằng nó bắt nguồn từ chữ “och aye” của họ. Người Hi-lạp nói có thể là do chữ “ola kala” có nghĩa là “mọi việc đều tốt”. Người Pháp tin rằng từ ngữ nầy phát sinh từ chữ “aux Cayes” mà dân họ thường dùng ngày xưa.
Nhưng các nhà soạn tự điển Oxford quả quyết “OK” là tiếng Anh, do chữ “orl korrekt” mà ra. Chữ nầy đầu tiên cố ý viết sai chính tả với dụng ý đùa cợt, có nghĩa là “all correct” (mọi việc đều đúng). Nó xuất hiện trên một bài báo trong tờ Boston Morning Post cách nay178 năm.
Tìm trong Kinh Thánh, hẳn Bạn không thấy chữ “OK”. Nhưng giả sử bây giờ, dùng ngôn ngữ bình dân để viết câu ‘Hỡi đầy tớ ngay lành và trung tín kia, được lắm!” (Ma-thi-ơ 25:21) bạn có thể viết rằng: “Hỡi đầy tớ ngay lành và trung tín kia, con OK lắm!” chắc mọi người cũng hiểu. (“My good and faithful servant, you’re OK!”).

Nhân sinh nhật Hội Thánh, ước mong mỗi một con dân Ngài đều được chính môi miệng của Vua muôn vua, Chúa muôn chúa phán riêng với mình rằng:  “Con đẹp lòng Ta mọi đàng”. Đó sẽ là niềm hãnh diện lớn lao cho những đầy tớ “ngay lành và trung tín” ngày đêm dốc lòng phụng sự Đấng Yêu Thương!


Hôm nay Bạn thấy mình có OK không?

Wednesday, 28 June 2017

BA PHẦN CỦA ĐỜI SỐNG

Có người ví đời sống con người trong trần gian như bọt xà-phòng. Thoáng một chốc rồi tiêu tan. Sinh ra với hai bàn tay trắng, lúc từ giã cũng chỉ là trắng tay, dù một hạt bụi cũng không mang theo được. Vì thế, cứ so đo hơn thiệt chỉ làm tổn hại những ngày hạnh phúc ở cõi đời. Cái gì của mình ắt sẽ thuộc về mình, cái gì không phải của mình dù có cố công tranh giành cũng chẳng được. Con người vốn nhỏ bé giữa vũ trụ bao la, nên cứ sống vô tư thuận theo tự nhiên thì sẽ vui vẻ, hạnh phúc.
Bạn mua một chiếc điện thoại đắt tiền, nhưng có 70 phần trăm chức năng không hề dùng đến.
Bạn xây một biệt thự nguy nga, 70 phần trăm diện tích căn nhà không được xử dụng.
Bạn bỏ ra 17 năm từ mẫu giáo đến đại học, nhưng có 70 phần trăm kiến thức thu hoạch từ trường học sẽ không bao giờ dùng đến.
Đời người cũng vậy, cho dù sống 100 năm, nếu tính kỹ ra chỉ sống thực sự 30 năm mà thôi. Như thế trong 10 phần của đời sống, chỉ tìm kiếm niềm vui 3 phần, 7 phần còn lại phải bỏ qua, phải quên đi, phải buông xuống. Một đời sống thỏa mãn đơn giản chỉ là thụ hưởng trọn vẹn ba phần thuộc về mình.
Nói đến mối tương quan xã hội, sứ đồ Phao-lô khuyên chúng ta phải loại bỏ cay đắng, oán hờn, giận dữ, cãi cọ, phỉ báng và mọi điều xấu xa. Bên cạnh đó ông khuyên người theo Chúa giữ lại ba điều: nhân từ, yêu mến và tha thứ. Quả thật, nếu ba điều ấy thuộc về mình thì cuộc đời nầy hạnh phúc biết bao!
Hạnh phúc cho chính mình. Và hạnh phúc cho mọi người xung quanh.

“Phải loại bỏ khỏi đời sống anh em những điều cay đắng, oán hờn, giận dữ, cãi cọ, phỉ báng và mọi điều xấu xa khác. Phải có lòng nhân từ, yêu mến nhau, phải tha thứ nhau như Thượng Đế đã tha thứ anh em trong Chúa Cứu Thế” (Ê-phê-sô 4:31-32)

Tuesday, 20 June 2017

RÁC

Bạn có bao giờ ngờ rằng mỗi tuần, trung bình một gia đình tại Úc ném đi 20 phần trăm số thực phẩm họ đã mua sắm? Nghĩa là cứ 5 bao thức ăn mua ở chợ về thì có một bao bị bỏ vào thùng rác. Tổng cộng, thức ăn bị phung phí mỗi năm lên đến 33 triệu tấn. Đó chỉ là nói riêng ở xứ mà chúng ta đang sống. Còn trên thế giới người ta ước tính có khoảng 13 tỷ tấn thực phẩm bị phung phí ở các quốc gia thịnh vượng. Trong khi đó có chừng 800 triệu người tại các vùng nghèo khổ phải lên giường với cái bụng lép.
Từ sự hoang phí đó, vấn nạn rác trở thành một mối ưu tư của nhân loại. Vào những năm 1960, nước Úc đi tiên phong trong việc hạn chế rác và tái chế đồ phế thải. Chiến dịch “Keep Australia Beautiful” (Giữ Nước Úc Tươi Đẹp) đã giúp rất nhiều người ý thức việc bảo vệ môi trường. Nhưng rồi trong những năm gần đây, nhu cầu tiêu thụ gia tăng cộng với sự giảm giá cạnh tranh giữa các siêu thị, người Úc quên mất trách nhiệm, bỏ đi hàng tấn rác rưởi như đồ gia dụng, quần áo, thức ăn. Bây giờ mỗi năm số lượng rác và đồ phế thải của Úc tăng 8 phần trăm.
Mới đây tại tiểu bang New South Wales đã tổ chức một Hội Nghị Thường Niên Về Đồ Phế Thải (Annual Waste Conference), hàng trăm người trên khắp thế giới tham dự. Mọi người đều đem nỗi ưu tư và cách giải quyết từ quốc gia mình đến để góp ý kiến nhằm giải quyết nỗi khó khăn nầy. Điều ai ai trong hội nghị cũng khuyên là mỗi người nên thay đổi thói quen tiêu thụ. Hãy nhớ rằng việc mua sắm và tiêu dùng cũng là một vấn đề đạo đức. Đạo đức là bởi vì mặc dù tôi chỉ tiêu xài bằng tiền bạc của mình nhưng cũng ít nhiều ảnh hưởng đến người khác. Nếu tôi tiêu tiền vào những thứ mình không xài đến hoặc thừa mứa bỏ đi, trong khi có biết bao người đang sống thiếu thốn đói khổ, là thiếu đạo đức. Có bao giờ bạn nghĩ những thứ mình mua mà không dùng đến, đem ném vào thùng rác, chúng sẽ đi về đâu? Hay một khi xe rác đến đem đi là chúng ta hết phần trách nhiệm?

Để kết luận bài nầy, như thường lệ, tôi muốn dùng một câu Thánh Kinh, nhưng nghĩ mãi không biết sẽ áp dụng câu nào ở đây. Cuối cùng thì Chúa cũng đặt vào lòng tôi Lời Ngài. Đây là lời khuyên của sứ đồ Phao-lô hai ngàn năm trước mà tưởng chừng ông mới nói hôm qua: “Mỗi một người trong anh em chớ chăm về lợi riêng mình, nhưng phải chăm về lợi kẻ khác nữa”. Phi-líp 2:4. 

Tuesday, 6 June 2017

MÁY ĐO HẠNH PHÚC

Dubai là thủ đô và là thành phố lớn nhất của nước Ả-rập Thống-nhất (United Arab Emirates). Thủ phủ xây trên cát nầy được mệnh danh là “thành phố Vàng”. Nó lớn lên bên bờ vịnh Ba-tư nhiều dầu mỏ và phát triển tột bực chỉ trong vòng một thế hệ.
Mới đây chính quyền cho đặt “Máy Hạnh Phúc” (Happiness Machines) khắp nơi trong thành phố. Những máy nầy không phải để kiểm soát an ninh mà chỉ ghi nhận những biểu cảm trên gương mặt của nhân dân. Chương trình nầy có tên là “Dubai Tinh Khôn” (Smart Dubai). Họ cho biết đã ghi nhận sáu triệu gương mặt và có đến 90 phần trăm tỏ ra mãn nguyện với đời sống hiện tại. Mục tiêu từ nay đến năm 2021 sẽ có 95 phần trăm dân chúng “hồ hỡi phấn khởi” vui hưởng an bình, hỉ lạc.
Để sớm đạt đến thành quả đó, vương quốc đã cho thành lập hẳn một bộ đặc biệt, gọi là “Bộ Hạnh Phúc”, do bộ trưởng Al Roumi đảm trách. Ngoài ra trong tất cả các ban ngành của chính phủ đều có tổng giám đốc chuyên về hạnh phúc của người dân. Nói chung, từ cấp lãnh đạo đến một công dân quèn, ai ai cũng xem trọng hạnh phúc. Mọi chính sách nhà nước đều hoạch định trên tiêu chuẩn cao đẹp nầy. Họ có ‘ngày hạnh phúc’, ‘công viên hạnh phúc’, ‘lễ hội hạnh phúc’ vân vân. Dầu vậy, vào năm 2017, viện Nghiên Cứu Hạnh Phúc Thế Giới chỉ xếp Dubai vào thứ hạng 21 trên toàn thế giới!
Người ta nói “buồn ngủ gặp chiếu manh” có khi còn sung sướng hơn là sống trong lầu son gác tía mà trằn trọc suốt canh thâu. Nhiều người nghèo rớt mồng tơi mà mãi tươi cười, trong lúc những tay trọc phú nhăn nhó suốt năm. Như thế, xét cho cùng, khi tâm hồn được bình an, khi mối quan hệ với người chung quanh được hài hòa, thì ta cảm nhận được hạnh phúc.
Di sản Chúa Giê-xu để lại trần gian trước khi về trời cho con dân Ngài qua mọi thời đại dù phải sống trong nghịch cảnh, bắt bớ, giam cầm hay hoạn nạn chính là một bí quyết hạnh phúc: “Ta để lại cho các con sự bình an trong tâm hồn. Ta ban cho các con sự bình an Ta, chẳng phải thứ bình an mong manh của trần gian. Lòng các con đừng bối rối, sợ hãi” (Giăng 14:27). Sứ đồ Phao-lô thốt lên khi trải nghiệm sự kỳ diệu nầy rằng: “Sự bình an của Đức Chúa Trời vượt quá mọi sự hiểu biết” (Phi-líp 4:7).

Bạn đã tìm gặp thứ hạnh phúc quý báu nầy chưa?

Sunday, 7 May 2017

CHUYỆN CỔ TÍCH VỀ SỰ RA ĐỜI CỦA NGƯỜI MẸ

Huyền thoại kể rằng: Thuở xa xưa, khi Đấng Tạo Hóa tạo ra người mẹ đầu tiên trên thế gian. Ngài đã làm việc miệt mài suốt 6 ngày đêm, quên ăn quên ngủ, mà vẫn chưa hoàn tất công trình. Thấy như vậy, một trong những thiên thần hỏi: Tại sao Ngài lại mất quá nhiều thời giờ cho tạo vật nầy vậy?
Tạo Hóa đáp: Đây là một tạo vật cực kỳ phức tạp, cần có đến hơn 200 bộ phận riêng biệt, đòi hỏi tính bền bỉ kiên trì, nhưng vẫn chẳng phải là gỗ đá vô tri vô giác. Tạo vật nầy có thể sống bằng nước lã và thức ăn thừa của con cái, nhưng suốt đời luôn đủ sức ôm ấp trong vòng tay dù là có bao nhiêu đứa con chăng nữa. Đặc biệt là nụ hôn của nó có thể chữa lành mọi vết thương, từ một sướt trầy nhỏ trên đầu gối cho tới một trái tim tan vỡ. Ta còn có ý định ban cho nó cả thảy 6 đôi tay và 3 đôi mắt.
-Sáu đôi tay và ba đôi mắt? Vị thiên thần kinh ngạc.
-Vâng như thế cũng chưa chắc là đủ. Bởi vì đây chính là tạo vật tâm đắc nhất trong công cuộc sáng tạo, nên Ta dành tất cả mọi ưu ái cho nó. Nó phải có 6 đôi tay mới làm xong hết công việc hằng ngày. Nó cũng cần 3 đôi mắt. Một đôi mắt có thể nhìn xuyên qua những cánh cửa đóng kín để biết được lũ trẻ đang làm gì. Đôi mắt thứ hai ở sau gáy để nhìn thấy mọi điều, quán xuyến mọi chi tiết đa đoan. Và đôi mắt thứ ba nằm trên trán để nhìn suốt tim gan của những đứa con lầm lạc. Với cái nhìn đó, các con hiểu rằng mẹ chúng luôn luôn cảm thông, thương yêu và sẵn lòng tha thứ cho mọi lỗi lầm, sai phạm, dù rằng nhiều khi bà chẳng nói thành lời.
Vị thiên thần chạm vào tạo vật “mẹ” và ngạc nhiên nói: Tại sao nó lại mềm mại như thế? –Mềm mại à? Ngươi mới biết một mà chưa biết hai. Tạo vật nầy trông yếu đuối, nhưng rất cứng rắn. Nhờ đó mà nó có thể chịu đựng được mọi gánh nặng, những gian khổ, phiền muộn trong suốt cuộc đời.
Vị thiên thần sờ lên má của người mẹ và kêu lên: Hình như Ngài để rớt cái gì đó trên đôi má người nầy. Tạo Hóa thở dài thổ lộ: Đó chính là những giọt nước mắt. Nước mắt để bộc lộ niềm vui, nỗi buồn, cơn thất vọng, niềm cay đắng, lúc cô đơn và dĩ nhiên cả những tự hào về con cái mà người mẹ nào cũng sẽ trải qua. Những giọt nước mắt ấy thật là kỳ diệu biết bao!

“Ta sẽ yên ủi các ngươi như mẹ yên ủi con” (Ê-sai 66:13)

Thursday, 27 April 2017

KẾT HÔN VỚI NGƯỜI ĐÃ CHẾT

Cô Karen Jumeaux, 22 tuổi, đến tòa thị chính để lập gia đình. Điều kỳ lạ là chàng rể sẽ cùng cô kết tóc xe duyên là Anthony Maillot đã qua đời trong một tai nạn xe cộ trước đó một năm.
Cuộc hôn nhân hai người Pháp nầy đã được cựu tổng thống Nicolas Sarkozy chấp thuận sau nhiều tháng dài cô dâu trường kỳ tranh đấu. Bởi vì theo luật của nước Pháp, chính quyền chỉ “gật đầu” khi người phụ nữ chứng minh một cách rõ ràng rằng khi còn sống, hai người đã từng hoạch định việc thành hôn với nhau. Không phải chỉ bằng lời nói, mà còn đòi hỏi nhiều bằng cớ khó khăn khác nữa.
Ngày 25 tháng 6 năm 2011, cô Karen Jumeaux bước lên xe hoa trong chiếc áo cưới màu trắng, tay cầm bó hoa, dẫn theo đứa con vừa tròn hai tuổi. Nghi thức hôn phối diễn ra tại tòa thị chính thành phố Dizy-le-Gros với sự hiện diện của gia đình hai họ và nhiều bạn hữu. Hôm đó thiếu chú rễ. Chỉ có một tấm hình thay thế. Khi ông thị trưởng hỏi: “Có phải cô tự nguyện kết hôn và làm vợ của Maillot chăng”. Cô nhìn tấm hình, đáp cách mạnh mẽ và vui mừng: “Oui” (nghĩa là phải).
Sau phần nghi thức, ông thị trưởng phát biểu: ‘Tôi đã từng làm hôn phối cho không dưới 30 cặp vợ chồng, nhưng chưa bao giờ chứng kiến trường hợp như thế nầy. Đây là một minh chứng rất đẹp cho tình yêu’. Các chuyên gia luật pháp thì đặt vấn đề rằng nếu ngày nào đó cô Karen gặp một người đàn ông khác và muốn kết hôn, thì cô phải ly dị người chồng quá cố nầy, lúc ấy thủ tục sẽ rất nhiêu khê. Nghe như thế cô ôm tấm ảnh chồng trong tay, trả lời: ‘Anh là mối tình đầu và duy nhất của em. Em sẽ chẳng để mất anh nữa đâu. Chúng mình mãi mãi sống chết bên nhau!”.

Gần 2000 năm trước có một người đang sống, nhưng tuyên bố rằng mình đã bị tử hình với Chúa Cứu Thế trên thập tự giá. Và ông lấy làm vinh dự được cùng chết với Ngài. Người đó là sứ đồ Phao-lô. Ông nói: “Tôi đã bị đóng đinh vào thập tự giá với Đấng Christ; mà tôi sống, chẳng phải là tôi sống nữa, nhưng Đấng Christ sống trong tôi. Nay tôi còn sống trong xác thịt, ấy là tôi sống cho Con Một Đức Chúa Trời, Đấng đã yêu tôi và phó chính mình Ngài vì tôi”.