GIỌT NƯỚC MẮT THA HƯƠNG
‘Ai
về nước Nam cho tôi về với’ tưởng là câu nói diễn tả tâm trạng đồng hương tị nạn,
trong những năm đầu lưu lạc quê lạ, xứ người. Nhưng không, đó là lời được khắc
trên bia mộ cách nay 600 năm của một người Việt bị bắt buộc xa rời quê cha đất
tổ cho đến cuối cuộc đời, không một lần về lại.
Nguyễn
Bá Tĩnh, sinh năm 1330, con của một gia đình nông dân nghèo. Từ nhỏ nổi tiếng
thông minh. Chẳng may cha mẹ mất sớm, năm lên sáu ông được gửi vào chùa nuôi ăn
học, lấy pháp danh là Tuệ Tĩnh. Lúc 22 tuổi, thi đỗ Thái học sinh, nhưng không
chịu ra làm quan mà dấn thân vào con đường nghiên cứu y học với tâm niệm cứu
người. Ông nổi danh là một thầy thuốc giỏi. Người đời gọi ông là vị thánh thuốc
nam với câu nói nổi tiếng ‘Nam dược trị Nam nhân’.
Bên
cạnh chữa lành người bịnh, ông còn đào tạo học trò, viết sách, truyền bá kiến
thức, giới thiệu 500 bài thuốc nam qua thơ phú. Ông để lại cho đời những tác phẩm
y học bằng văn chương trác tuyệt. Ông cũng tự trau giồi đèn sách, năm 45 tuổi
thi đậu Hoàng giáp, ai nấy đều nức lòng ngưỡng mộ.
Nhưng
rồi đến năm 55 tuổi, ông bị sung vào đoàn người đưa đi triều cống nhà Minh. Bấy
giờ nước ta đang bị Bắc phương đô hộ. Hằng năm vua Việt phải cống nạp cho thiên
triều ngọc ngà, châu báu và những nhân tài của đất nước. Con đường lưu vong của
bậc danh y đưa ông đến vùng trời xa lạ.
Ở
cung điện Trung Hoa, ông tiếp tục làm nghề thầy thuốc. Chẳng bao lâu đã nổi tiếng.
Một lần ông cứu sống vợ của vua Minh là Tống Vương Phi, được triều đình phong
tước ‘Đại Y Thiền Sư’. Trong buổi lễ nhậm chức, giữa công hầu vương tướng, lòng
chạnh nhớ quê hương, cảm thương cho thân phận người dân nhược tiểu, ông bật
khóc nức nở. Đến tuổi già, biết chẳng có cơ hội trở về, trước khi qua đời ông dặn
khắc trên bia mộ của mình dòng chữ ‘Ai về nước Nam cho tôi về với’.
Ba
thế kỳ sau, năm 1690, tiến sĩ Nguyễn Danh Nho đi sứ sang nhà Thanh, đến thăm mộ
phần, cảm động với lời nhắn nhủ của cố nhân, xin đưa hài cốt danh y Tuệ Tĩnh về
nước, nhưng nhà Thanh không chấp nhận. Vị sứ thần bèn chép lại lời ghi trên mộ,
về đến Kim Môn thuê người khắc nguyên văn trên bia đá.
Nhưng
rồi có quá nhiều huyền thoại liên quan đến tấm bia đá nầy đến nỗi hàng ngàn người
đến dâng lễ, cúng bái, năm 1846 vua Thiệu Trị cho là mê tín, ra lịnh đục bỏ hết
những chữ trên bia và nhốt nó vào ngục thất. Qua bao thăng trầm lịch sử, tấm
bia có hàng chữ bị đục bỏ lại được bảo tồn cho đến ngày nay. Cổ vật gợi lại số
phận của người con lưu lạc, đau đáu nỗi niềm một ngày được nhìn lại quê hương.
Hài
cốt Tuệ Tĩnh nằm tại đất Trung Hoa là sứ điệp ngàn đời. Người Việt đến đây, tìm
thấy tấm bia là tìm thấy lời nhắn gửi của vị đại sư về thân phận người dân bị mất
nước, bị nô lệ. Còn người Trung Hoa nhìn thấy tấm bia cũng hiểu được sức mạnh
tiềm ẩn và tình yêu quê hương cháy bỏng đến tận cùng của dân tộc Việt Nam.
No comments:
Post a Comment